Soạn bài Tổng kết phần Văn học (tiếp theo) ngắn nhất
Soạn bài Tổng kết phần Văn học (tiếp theo)
A. Nhìn chung về nên văn học Việt Nam
1. Văn học chữ Hán, chứ Nôm
* Văn học Chữ Hán
- Thơ thất ngôn tứ tuyệt:
+ Sông núi nước Nam (?)
+ Phò giá về kinh (Trần Quang Khải);
+ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra (Trần Nhân Tông);
- Cáo: Nước Đại Việt ta (trích Bình Ngô đại cáo);
- Song thất lục bát: Sau phút chia li (trích Chinh phụ ngâm) (Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm);
- Thất ngôn bát cú: Bài ca Côn Sơn (Nguyễn Trãi);
* Văn học Chữ Nôm
- Truyện thơ:
+ Chị em Thúy Kiều; Cảnh ngày xuân; Kiều ở lầu Ngưng Bích; Mã Giám Sinh mua Kiều; Thúy Kiều báo ân, báo oán (trích Truyện Kiều);
+ Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga; Lục Vân Tiên gặp nạn (trích Truyện Lục Vân Tiên);
- Truyền kì mạn lục: Chuyện người con gái Nam Xương
- Tiểu thuyết chương hồi: Hoàng Lê nhất thống chí – Hồi mười bốn
- Tùy bút: Vào phủ chúa Trịnh (trích Vũ Trung tùy bút);
- Truyện ngắn: Con hổ có nghĩa; Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng;
- Thơ thất ngôn bát cú: Qua đèo Ngang (Bà huyện Thanh Quan); Bạn đến chơi nhà (Nguyễn Khuyến); Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác (Phan Bội Châu); Đập đá ở Côn Lôn (Phan Chu Trinh);
- Song thất lục bát: Hai chữ nước nhà (Trần Tuấn Khải); Song thất lục bát: Sau phút chia li (trích Chinh phụ ngâm) (Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm);
- Tấu: Bàn về phép học;
- Chiếu: Chiếu dời đô;
- Hịch: Hịch tướng sĩ;
2. Phân biệt văn học dân gian và văn học viết
Văn học dân gian Văn học viết
- Lưu hành: truyền miệng, có nhiều dị bản, có tính không ổn định.
- Là sáng tác của nhân dân có tính tập thể, vô danh.
- Được sinh ra từ thực tại cuộc sống của nhân dân qua hoạt động sinh hoạt, sản xuất hàng ngày.
- Là tiếng nói chung của cộng đồng, tập thể, mang đặc điểm nghệ thuật truyền thống, mang bản sắc văn hóa, bản sắc dân tộc, không mang dấu ấn cá nhân.
- Lưu hành bằng chữ viết, có tính ổn định, tính thành văn.
- Là sáng tác của cá nhân, hữu danh, có tính cá thể.
- Mang tính thưởng thức của nghệ sĩ, được sinh ra từ cảm hứng của tác giả sáng tác.
- Mang màu sắc cái tôi cá nhân, mang cá tính, dấu ấn riêng của mỗi nghệ sĩ, nó có thể giống hoặc khác tiếng nói dân tộc.
3. Ảnh hưởng của văn học dân gian tới văn học viết.
- Nhiều tác giả sử dụng những câu ca dao, tục ngữ, thể loại dân gian để vận dụng sáng tác văn học viết.
- Văn học dân gian là tiền đề sáng tác cho văn học viết.
Ví dụ: trong bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Nhà thơ đã sử dụng câu thành ngữ: "bảy nổi ba chìm"; mô típ "thân em" trong ca dao, hình ảnh ẩn dụ "tấm lòng son".
4. Nêu và phân tích tinh thần yêu nước là một nội dung nổi bật cảu văn học Việt Nam qua các thời kì.
Tinh thần yêu nước là một chủ đề xuyên suốt trong văn học Việt Nam qua các thời kì. Từ xưa, nhân dân ta đã ý thức được về tinh thần yêu nước, khi mà văn học viết còn chưa ra đời thì một bộ phận văn học dân gian đã có những sáng tác về tinh thần yêu nước qua những câu ca dao – dân ca.
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba
Dù ai buôn bán gần xa
Nhớ ngày giỗ tổ tháng ba mùng mười.
Đây là một câu ca dao tiêu biểu, nói về ngày giỗ Tổ Hùng Vương của dân tộc Việt Nam ta. Mỗi năm cứ đến ngày 10 tháng 3 người dân cả nước đều nhớ đến.
5. Tinh thần nhân đạo
Văn học trung đại
Tinh thần nhân đạo của Chuyện người con gái Nam Xương thể hiện qua tấm lòng trân trọng của tác giả đối với những vẻ đẹp dung dị, cao cả của người phụ nữ cũng như đồng cảm với những bất hạnh mà cuộc đời họ phải hứng chịu. Nguyễn Dữ cảm thông cho số phận của Vũ Nương – một cô gái thùy mị, nết na, yêu chồng, thương con, hiếu thảo với mẹ chồng nhưng số khổ bạc mệnh, bị chồng hiểu lầm, vì giữ tiết mà nhảy sông tự vẫn. Qua Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đã góp một tiếng nói nhân ái, nhân đạo để đòi quyền được sống, được hưởng hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến suy tàn.
Văn học hiện đại
Lão Hạc của Nam Cao là một tác phẩm tiêu biểu cho tinh thần nhân đạo trong văn học hiện đại của Việt Nam. Giá trị nhân đạo của tác phẩm trước hết được khẳng định qua tấm lòng đồng cảm của nhà văn đối với những số phận bất hạnh của các nhân vật trong tác phẩm. Những con người trong tác phẩm này đều là nạn nhân của xã hội phong kiến nửa thực dân. Họ phải gồng mình chống lại nạn đói, những hủ tục phong kiến. Đó là một Lão Hạc trong cơ cực, khốn cùng nhưng luôn giữ tâm hồn sống cao đẹp. Nhà văn đã biết khám phá để nâng niu trân trọng và ngợi ca phẩm chất ngời sáng trong tâm hồn những người đồng bào lao khổ của mình.
B. Sơ lược về một số thể loại văn học
1. Các thể loại văn học dân gian chính
- Truyền thuyết: là một thể loại văn học dân gian, ra đời sau truyện thần thoại, thường có yếu tố tưởng tượng kì ảo, các nhân vật, sự kiện đều liên quan đến lịch sử, là những truyện truyền miệng kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật địa phương theo quan điểm của nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến của nó là khoa trương, phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng yếu tố hư ảo, thần kỳ như cổ tích và thần thoại.
- Truyện cổ tích: là một thể loại văn học được tự sự dân gian sáng tác có xu thế hư cấu, bao gồm cổ tích thần kỳ, cổ tích thế sự, cổ tích phiêu lưu và cổ tích loài vật. Đây là loại truyện ngắn, chủ yếu kể về các nhân vật dân gian hư cấu, như tiên, yêu tinh, thần tiên, quỷ, người lùn, người khổng lồ, người cá, hay thần giữ của, và thường là có phép thuật, hay bùa mê.
- Truyện cười: là một lĩnh vực truyện kể dân gian rộng lớn, đa dạng, phức tạp bao gồm những hình thức được gọi bằng những danh từ khác nhau như: truyện tiếu lâm, truyện khôi hài, truyện trào phúng, truyện trạng, giai thoại hài hước...
- Truyện ngụ ngôn: Truyện ngụ ngôn là truyện kể có tính chất thế sự, dùng cách ẩn dụ để thuyết minh cho một chủ đề luân lý, triết lý một quan niệm nhân sinh hay một nhận xét về thực tế xã hội.
- Ca dao – dân ca: Ca dao là những câu thơ có thể hát thành những làn điệu dân ca, ru con... hoặc ca dao là lời dân ca đã lược bỏ đi những luyến láy khi hát. Ca dao để lại dấu vết rõ rệt nhất trong ngôn ngữ văn học. Phần lớn nội dung ca dao thể hiện tình yêu nam nữ, ngoài ra còn có những nội dung khác của ca dao: quan hệ gia đình, các mối quan hệ phức tạp khác trong xã hội...
- Tục ngữ là những câu nói đúc kết kinh nghiệm của dân gian về mọi mặt như: tự nhiên, lao động sản xuất và xã hội, được nhân dân vận dụng vào đời sống, suy nghĩ, lời ăn tiếng nói và khuyên răn. Nó ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, có nhịp điệu, có hình ảnh.
- Chèo: Chèo là loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền Việt Nam. Chèo phát triển mạnh ở phía bắc Việt Nam với trọng tâm là vùng châu thổ sông Hồng cùng hai khu vực lan tỏa là trung du miền núi Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Loại hình sân khấu này phát triển cao, giàu tính dân tộc. Chèo mang tính quần chúng và được coi là loại hình sân khấu của hội hè với đặc điểm sử dụng ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa kết hợp với cách nói ví von giàu tính tự sự, trữ tình.
2. Nhân vật truyện cổ tích
- Nhân vật dũng sĩ: Thạch Sanh,
- Nhân vật có tài năng đặc biệt: Ba chàng thiện nghệ, Bốn anh tài;
- Nhân vật xấu xí: Sọ Dừa, Chàng Cóc
- Nhân vật ngốc nghếch: Nhân vật chàng trai trong Kéo cây lúa lên;
3. Niêm luật thơ thất ngôn bát cú Đường luật
Qua Đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan
T T B B T T B
T B B T T B B
B B T T B B T
T T B B T T B
T T B B B T T
B B T T T B B
B B T T B B T
T T B B B T B
Bài thơ được gieo vần trắc, ví dụ 4 câu đầu:
Câu 1: Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
___________T______ B _______T__B
Câu 2: Cỏ cây chen lá, đá chen hoa
_________B ______T ____B___B
Câu 3: Lom khom dưới núi, tiều vài chú
___________B _______T _____B__T
Câu 4: Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
___________T _____B ______T___B
4. Truyện thơ Nôm đã học
Gồm có 2 truyện thơ Nôm là truyện Kiều và Truyện Lục Vân Tiên
Truyện Kiều: Thúy Kiều là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, sống êm ấm cùng cha mẹ và 2 em là Thúy Vân và Vương Quan. Trong buổi du xuân, Kiều gặp Kim Trọng, thề nguyền đính ước với nhau. Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan, Kiều phải bán mình chuộc cha. Kiều bị Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa đẩy vào lầu xanh, được Thúc Sinh cứu khỏi lầu xanh nhưng bị Hoạn Thư ghen, Kiều phải trốn đi nương náu ở chùa Giác Duyên. Vô tình Kiều lại rơi vào tay Bạc Hạnh, Bạc Bà phải vào lầu xanh lần thứ 2. Kiều gặp Từ Hải. Từ Hải lấy Kiều làm vợ, giúp Kiều báo ân báo oán. Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, bị giết. Kiều bị bắt ép gả cho tên thổ quan. Nàng tủi nhục trầm mình ở sông Tiền Đường, Được sư Giác Duyên cứu, nương nhờ cửa Phật lần thứ 2. Kim Trọng trở lại, kết duyên với Thúy Vân nhưng vẫn đi tìm Kiều. Nhờ sư Giác Duyên, Kim – Kiều gặp nhau, gia đình đoàn tụ. Kim gặp Kiều đổi tình yêu thành tình bạn.
Truyện Lục Vân Tiên: Lục Vân Tiên xuất thân con nhà nghèo, khôi ngô tuấn tú "văn võ song toàn". Trên đường dự thi gặp và đánh tan bọn cướp, cứu Kiều Nguyệt Nga và nàng hầu. Kiều Nguyệt Nga mang theo hình bóng của Lục Vân Tiên - người có ơn cứu mạng mình. Lục Vân Tiên ghé thăm nhà Võ Công - gia đình hứa trả con gái cho chàng. Lục Vân Tiên gặp bạn tốt: Vương Tử Trực, Hớn Minh; kẻ xấu: Trịnh Hâm, Bùi Kiệm. Sắp vào trường thi: Lục Vân Tiên nghe tin mẹ mất. Chàng bỏ thi, khóc thương xót mẹ mù cả hai mắt. Chàng bị bọn xấu lừa gạt lấy hết tiền, bị Trịnh Hâm đẩy xuống sông, được Giao Long và vợ chồng Ngư ông cứu vớt. Lục Vân Tiên tìm đến nhà Võ Công thì bị hắt hủi, bỏ vào hang sâu, chàng được Thần núi và ông Tiều cứu giúp. Chàng gặp Hớn Minh, họ sống trong một ngôi chùa. Kiều Nguyệt Nga từ ngày được Lục Vân Tiên cứu khỏi tay bọn cướp, nàng thề nguyện chung thủy với chàng. Khi nàng bị bắt đi cống giặc Ô Qua, Kiều Nguyệt Nga nhảy xuống sông tự vẫn nhưng được quan thế âm cứu giúp đưa vào nhà Bùi Kiệm, hắn ép Kiều Nguyệt Nga phải lấy hắn, nàng bỏ trốn được bà lão trong rừng đưa về nuôi. Lục Vân Tiên gặp thuốc tiên chữa khỏi mắt. Chàng thi đỗ Trạng Nguyên, sau đấy được nhà vua cử đi dẹp giặc Ô Qua. Thắng trận trở về chàng gặp lại Kiều Nguyệt Nga. Từ đấy, hai người nên vợ nên chồng sống cuộc đời hạnh phúc.
Điểm giống nhau giữa 2 tác phẩm: Đó là nhân vật chính đều là những người tài giỏi, nữ xinh đẹp, nam tuấn tú. Các nhân vật chính gặp nhau và đem lòng yêu nhau, thề nguyện và đính ước. Nhưng tai họa ập đến, nhân vật chính gặp tai ương, bị kẻ gian hãm hại. Nhưng sau bao đau khổ chia cách thì người ở hiền gặp lành, nhân vật chính được đoàn tụ với gia đình, người yêu và sống hạnh phúc bên nhau.
5. Những câu ca dao và thơ lục bát
- Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng.
- Trích Cảnh ngày xuân (trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
6. Nhận xét sự khác nhau trong cách trần thuật, xây dựng nhân vật trong văn học trung đại và văn học hiện đại
Tuy cùng thuộc loại hình tự sự, nhưng truyện ngắn hiện đại có nhiều đổi mới về phương thức tự sự, miêu tả so với truyện ngắn thời trung đại.
Truyện ngắn hiện đại sử dụng đa dạng các cách trần thuật, di chuyển các điểm nhìn (từ người trần thuật khách quan ở bên ngoài đến điểm nhìn từ bên trong nhân vật). Cách trần thuật từ ngôi thứ nhất (Lão Hạc, Cố hương) thường chỉ thấy xuất hiện trong truyện hiện đại.
Về xây dựng nhân vật cũng có nhiều điểm khác biệt. Nhân vật trong truyện trung đại thường chỉ được hiện ra qua lời kể, qua hành động và đối thoại, ít được thể hiện trực tiếp nội tâm, ít chú trọng khắc hoạ cá tính, vì thế thường thuộc nhân vật loại hình. Trong truyện hiện đại, nhân vật được khắc hoạ từ nhiều phương diện: ngoại hình, hành động và nhất là nội tâm, qua lời người trần thuật và lời đối thoại, độc thoại của nhân vật. Nhân vật cũng có nhiều loại: nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng, nhân vật chức năng,...