X

500 bài văn mẫu lớp 10

Dàn ý Phân tích nhân vật khách trong bài thơ Phú sông Bạch Đằng năm 2023


Dàn ý Phân tích nhân vật khách trong bài thơ Phú sông Bạch Đằng năm 2023

Bài văn Phân tích nhân vật khách trong bài thơ Phú sông Bạch Đằng gồm dàn ý chi tiết, 3 bài văn phân tích mẫu được tuyển chọn từ các bài văn phân tích đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài kiểm tra, bài thi môn Ngữ văn 10.

Dàn ý Phân tích nhân vật khách trong bài thơ Phú sông Bạch Đằng năm 2023 - Văn mẫu lớp 10

Phân tích nhân vật khách trong bài thơ Phú sông Bạch Đằng - mẫu 1

Trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm, ông cha ta đã ghi lên trang sử nước nhà những trận thuỷ chiến thành công vang dội. Trong số những dòng sông, cửa biển in đậm dấu ấn lịch sử, Bạch Đằng là con sông nổi tiếng nhất, oai hùng nhất. Ngợi ca con sông huyền thoại, Nguyễn Trãi viết Bạch Đằng hải khẩu, Nguyễn Sưởng sáng tác Bạch Đằng giang, và nổi bật hơn cả là Trương Hán Siêu với tuyệt tác Bạch Đằng giang phú. Xuyên suốt tác phẩm nổi bật lên hình tượng nhân vật khách đầy ấn tượng.

Nhà thơ Trinh Đường viết “Bạch Đằng, chói lọi vinh quang của đất nước Việt Nam anh hùng” bởi lẽ trên dòng sông thuộc tỉnh Quảng Ninh này đã diễn ra những trận đánh toàn thắng, để lại tiếng vang muôn đời. Năm 938, Ngô Quyền đuổi sạch quân Nam Hán. Năm 1288, vua Trần đánh tan giặc Mông – Nguyên. Để tái hiện lại những chiến tích này và bày tỏ lòng tự hào về một dân tộc tài trí, anh dũng, tráng sĩ họ Trương cho ra đời Bạch Đằng giang phú. Có lẽ bài phú được môn khách của Trần Hưng Đạo viết sau chiến thắng Mông – Nguyên khoảng 50 năm. Nổi bật trong bài phú là hình tượng nhân vật khách và nhân vật bô lão.

Cùng tạo nên tính khách quan cho tác phẩm nhưng trong khi nhân vật bô lão dẫn chuyện thì nhân vật khách lại đóng vai trò khẳng định tầm quan trọng của con người trong cuộc chiến và thể hiện cảm xúc của bài phú. Sự hoá thân tài tình của tác giả vào hình tượng khách góp phần không nhỏ tạo nên thành công của tác phẩm. Mở đầu Bạch Đằng giang phú, nhân vật khách hiện lên với tình yêu thiên nhiên, học vấn sâu rộng và tráng chí bốn phương:Khách có kẻ:

Giương buồm giong gió chơi vơi

Lướt bể chơi trăng mải miết.

Lời giới thiệu cho thấy tâm hồn thi sĩ đầy lãng mạn trong nhân vật khách. Là một người ưa thích ngao du đó đây, nhân vật khách “tham quan” nhiều địa danh nổi tiếng của nước bạn như sông Nguyên, sông Tương, đầm Vân Mộng,… qua sách vở mà vẫn thấy chưa đủ với “tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”. Điều này chứng tỏ vốn kiến thức uyên thâm, lòng ham hiểu biết, mong muốn tìm tòi ở nhân vật này. Trương Hán Siêu “học Tử Trường chừ thú tiêu dao” đi du ngoạn thiên nhiên để hòa mình vào thắng cảnh, nghiên cứu lịch sử, trau dồi học thức, giãi bày tâm sự. Đến đây, người đọc bắt gặp bóng dáng của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong

Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

hay Cao Bá Quát trong

Phía bắc núi Bắc, núi muôn lớp

Phía nam núi Nam, sóng muôn đợt,…

Không bày tỏ đạo lý thanh cao như Trạng Trình, không bộc lộ sự chua xót, bất đắc trí như Cao Tử, tác giả đến với thiên nhiên với lòng mong mỏi hiểu biết nhiều hơn về phong cảnh đất nước mình, với niềm tự hào về những chiến công hiển hách của cha ông. Không còn trong những chuyến viễn du tưởng tượng, sông Bạch Đằng, một địa danh thưc hiện lên trước mắt nhân vật trữ tình:

Quả cửa Đại Than,Ngược bến Đông Triều.

Đến sông Bạch Đằng thuyền bơi một chiều.

Đứng trước di tích lịch sử, tâm trạng nhân vật trữ tình biến đổi từ tự hào, vui tươi đến u buồn ảm đạm.

Bát ngát sóng kình muôn dặm

Thướt tha đuôi trĩ một màu.

Nước trời: một sắc,

Phong cảnh: ba thu.

Bạch Đằng đương ở tháng thứ ba của mùa thu, thấm đẫm sắc xanh của nước trời. Được ngắm con sông hùng vĩ, đẹp nên thơ, trong lòng tác giả không khỏi tấm tắc ca ngợi, phấn khởi và tự hào vì được sống trong cảnh thái bình. Đối lập với sự hùng tráng của thắng cảnh trong hiện tại là nét bi tráng của bãi chiến trường trong quá khứ. “Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu.” Những từ láy gợi hình, gợi cảm khoác lên con sông Bạch Đằng vẻ đượm buồn, sức mạnh ăn mòn vạn vật của thời gian làm phai mờ dấu tích oai hùng một thời. Không những buồn, nhân vật trữ tình còn hết sức chua xót và thương cảm bởi hậu quả kinh khủng mà chiến tranh để lại trên dòng sông lịch sử: “Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”. Con sông Bạch Đằng đã nhấn chìm bao xương máu, nuốt trôi bao sinh mạng của những nạn nhân trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa. Tác giả chỉ có thể ngậm ngùi:

Buồn vì cảnh thảm,

Đứng lặng giờ lâu

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.

Tâm trạng của Thăng Phủ bấy giờ cũng giống với tâm trạng của những thi sĩ đã từng tới đây. Nguyễn Trãi than: Việc trước quay đầu ôi đã vắng Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng.Sau khi lắng nghe những lời kể chân thực và sinh động của các bô lão về hai trận thuỷ chiến trên sông Bạch Đằng, nhân vật khách ca rằng:

Anh minh hai vị thánh quân

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh

Giặc tan muôn thuở thăng bình

Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.

Lời bình cuối bài phú đã nêu ra chân lý bất biến về vai trò và tầm quan trọng của con người trong cuộc chiến. Khác với quan điểm của Nguyễn Sưởng trong Bạch Đằng giang:

Sự nghiệp Trùng Hưng ai dễ biết

Nửa do sông núi, lửa do người.

Trương Hán Siêu khẳng định yếu tố quyết định thắng lợi của quân ta trên sông Bạch Đằng là nhờ vào mưu lược, tài trí của hai vị vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và sự anh dũng, xả thân vì nghiệp lớn của những tướng sĩ, đặc biệt là Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Khi giặc đến, vua hỏi Trần Hưng Đạo nên làm thế nào, ông tâu “Năm nay thế giặc nhàn”. Cái “nhàn” ấy là sự đúc kết kinh nghiệm từ hai cuộc kháng chiến trước, là đoàn kết sức mạnh toàn dân tộc, là biết khoan thư sức dân.

Qua đó ta thấy, người đứng đầu một nước không chỉ vận dụng cái tài để bài binh bố trận trên sa trường mà còn lấy chữ “đức” để trị dân: “Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao”. Đức độ của nhà vua không chỉ thể hiện chốn điện các mà còn bộc lộ trên sa trường, như Quốc tộ đã viết:Vô vi nơi điện các Xứ xứ tức đao binh. Xuyên suốt bài phú, trong việc xây dựng hình tượng nhân vật khách, Trương Hán Siêu vận dụng nhiều biện pháp nghệ thuật. Trong lời giới thiệu đầu bài, tác giả kết hợp phương pháp liệt kê với bút pháp ước lệ khi nhắc đến những địa danh mà nhân vật trữ tình “đi” qua trong tưởng tượng:

Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt

Nơi có người đi đâu mà chẳng biết.

Tiếp đến, khi miêu tả con sông huyền thoại trong quá khứ và hiện tại, ông sử dụng cả biện pháp tả thực và lối nói phóng đại cùng dùng những từ láy gợi hình như “bát ngát”, “thướt tha”, “san sát”, “đìu hiu”, qua từng câu câu chữ của Thăng Phủ, Bạch Đằng hiện lên đầy kiêu hùng, bi tráng. Chưa hết, góp phần tạo nên thành công cho Bạch Đằng giang phú là cách truyền tải cảm xúc theo từng khung cảnh, giọng điệu của nhân vật khách thay đổi từ vui tươi, hưng phấn, tự hào đến trầm buồn, bi thương và tiếc nuối. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng những câu văn linh hoạt và cách ngắt nhịp bằng chữ “chừ” – từ đệm đặc trưng của thể phú giúp lời lẽ thêm uyển chuyền, nhịp nhàng.

Qua hình tượng nhân vật khách trong Bạch Đằng giang phú, Trương Hán Siêu bộc lộ đôi nét về bản thân: lòng ham học hỏi, tráng chí bốn phương, tình yêu tha thiết với thiên nhiên. Bên cạnh đó, tác giả bày tỏ tâm trạng của ông, cũng như bao người dân đất Việt trước những chiến công hiển hách, oanh liệt trên con sông Bạch Đằng. Đó là niềm tự hào về cha ông, về dân tộc, là lòng yêu nước yêu quê tha thiết, là sự thương xót và nuối tiếc cho chiến tranh thảm khốc. Không chỉ có vậy, tác giả còn khẳng định vai trò của con người trong cuộc chiến, ngợi ca tài đức của các vị thánh quân.

Dàn ý Phân tích nhân vật khách trong bài thơ Phú sông Bạch Đằng

I. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Trương Hán Siêu và tác phẩm Bạch Đằng giang phú

- Khái quát chung về nhân vật “khách”: Là hình tượng quan trọng trong bài, là sáng tạo nghệ thuật của tác giả để gửi gắm tình cảm, cảm xúc, tư tưởng.

II. Thân bài

1. Hình tượng khách với những cuộc ngao du.

- Khách là hình tượng quen thuộc trong thể phú bởi thể loại này thường có lối đáp chủ - khách. Khách chính là sự phân thân của tác giả để thể hiện tâm hồn, tình cảm, tư tưởng.

- Tâm hồn tự do, phóng khoáng: Giương buồm, giong gió, lướt bể, chơi trăng, mải miết.

- Có vốn hiểu biết phong phú, sâu rộng: Các địa danh Trung Quốc - Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, đầm Vân Mộng đều được tác giả biết đến qua sách vở, qua sự tưởng tượng.

- Có tình yêu thiên nhiên, thiết tha với quê hương, đất nước với quá khứ lịch sử hào hùng của dân tộc: Một loạt các danh lam thắng cảnh của Đại Việt - Đại Than, Đông Triều và dừng chân ở Bạch Đằng, dòng sông của chiến công lịch sử vẻ vang của dân tộc.

- Tâm hồn say mê, chủ động đến với thiên nhiên: Cách nói cường điệu “sớm Nguyên Tương – chiều Vũ Huyệt”, hành trình dài được khách thực hiện trong một ngày. Không gian, thời gian của cuộc hành trình đã nâng cao tầm vóc của khách.

2. Hình tượng khách qua những cảm xúc trước cảnh sông Bạch Đằng.

- Cảnh sắc thiên nhiên trên sông Bạch Đằng: Hùng vĩ, tráng lệ “sóng kình muôn dặm, đuôi trĩ một màu”, thơ mộng, trữ tình “ba thu, nước trời một sắc”, hoang vu, hiu hắt “san sát, đìu hiu, giáo gãy, xương khô”.

- Tâm trạng của khách:

    + Phấn khởi, thích thú khi đứng trước cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng mà thơ mộng

    + Buồn thương, tiếc nuối trước cảnh vật đổi thay, cho những người đã ngã xuống

    + Tư thế “đứng lặng giờ lâu” cho thấy tâm thế đắm chìm vào cảm xúc buồn thương, tiếc nuối của khách.

→Khách có những phát hiện tinh tế, cụ thể vẻ đẹp cảnh sắc phong phú, đa dạng của sông Bạch Đằng

→Là con người yêu thiên nhiên, tự hào về những cảnh sắc hào hùng gắn với lịch sử dân tộc

3. Hình tượng khách và niềm tự hào về những chiến công của quá khứ.

- Khách không trực tiếp tham gia vào câu chuyện của các vị bô lão nhưng câu chuyện về những chiến công vẻ vang của một thời lịch sử oanh liệt gắn với con sông Bạch Đằng đã gieo vào trong đầu khách niềm tự hào, niềm kiêu hãnh về quá khứ hào hùng của dân tộc.

- Khách đồng tình với các vị bô lão trong việc lí giải nguyên nhân của chiến thắng do thiên thời – địa lợi – nhân hòa và đặc biệt nhấn mạnh yếu tố con người. Cho thấy cái nhìn xa trông rộng đậm màu nhân văn của các bô lão và khách.

4. Hình tượng khách qua sự suy ngẫm về hưng vong của đất nước.

- Khách đã trực tiếp bày tỏ suy nghĩ của mình

- Ca ngợi dòng sông Bạch Đằng – chứng nhân lịch sử

- Ca ngợi hai vị thánh quân tài năng, đức độ

- Ca ngợi cuộc sống thanh bình của dân tộc

→Khẳng định tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước của khách.

5. Nghệ thuật xây dựng nhân vật.

- Khắc họa suy nghĩ, hành động nhân vật.

- Sử dụng phép liệt kê, phóng đại, ẩn dụ

- Ngôn ngữ trang trọng, hàm súc

- Cách kể và tả ngắn gọn nhưng giàu sức biểu đạt.

III. Kết bài

- Khái quát nội dung và nghệ thuật xây dựng nhân vật

- Nhân vật khách hội tụ tất cả những phẩm chất trong con người tác giả, giúp người nghệ sĩ thể hiện cái tôi và những tư tưởng mang tính lịch sử.

Phân tích nhân vật khách trong bài thơ Phú sông Bạch Đằng - mẫu 2

Không biết tự bao giờ, sông Bạch Đằng đã đi vào thi ca như một nguồn cảm hứng vô tận. Trong bài “Bạch Đằng giang”, Nguyễn Sưởng có viết:

“Mồ thù như núi, cỏ cây tươi

Sóng biển gầm vang, đá ngất trời.

Sự nghiệp Trùng Hưng ai dễ biết

Nửa do sông núi lửa do người.”

Bài thơ tuy ngắn nhưng thật cường tráng hào hùng, khắc họa một dòng sông son ghi dấu biết bao chiến công của lịch sử nước Việt. Cũng cùng nội dung đó nhưng Trương Hán Siêu lại sử dụng thể phú cổ thể rất độc đáo trong tác phẩm mang tên “Phú sông Bạch Đằng”. Bài phú được coi là một áng văn mẫu mực của văn học trung đại, thể hiện rõ nét hào khí Đông A. Hơn thế nữa, qua hình tượng nhân vật khách ta còn thấy được vẻ đẹp tráng chí của người anh hùng thời Trần cũng như âm hưởng chiến trận vang mãi đến muôn đời.

Như chúng ta đã biết, Trương Hán Siêu tự là Thăng Phủ, người làng Phúc Thành, huyện Yên Ninh, nay thuộc Ninh Bình. Ông vốn là môn khách trong nhà của Trần Hưng Đạo, làm quan bốn đời vua Trần, từng giữ chức hàn lâm viện học sĩ. Về chính sự, theo lịch sử ghi chép, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông năm 1288, ông đã cùng Trần Quốc Tuấn thao lược, chỉ huy quân ta đại thắng dẹp tan kẻ thù xâm lược. Về văn học, số lượng tác phẩm của ông để lại không nhiều nhưng nổi bật nhất vẫn là “Phú sông Bạch Đằng”.

Bài phú phỏng đoán được viết vào năm 1341-1269 (dưới đời Trần Dụ Tông). Thời gian này nhà Trần đang có dấu hiệu suy thoái, những chiến tích vang dội trên sông Bạch Đằng đã dần bị lu mờ bởi lớp bụi thời gian. Với tư cách của một nhà hoạt động xã hội, Trương Hán Siêu không thể bàng quan trước tình cảnh đó. Vì vậy ông việt Phú sông Bạch Đằng nhằm thể hiện niềm tự hào tự tôn dân tộc, đưa ra những chân lí đúng đắn của mọi thời đại. Qua sự phân thân của tác giả dưới hình tượng nhân vật khách, Trương Hán Siêu muốn bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc đối với những giá trị lịch sử cao đẹp. Xuyên suốt ba phần của bài phú là lối trò chuyện đối đáp giữa chủ và khách, có sự mạch lạc thống nhất giữa các đoạn. Tác giả đi từ giới thiệu nhân vật khách và bô lão rồi đến những suy ngẫm bình luận để tạo nên một cái nhìn tổng quan và toàn diện. Thật bất ngờ khi ngay từ đầu bài phú, tác giả đã viết:

“Khách có kè:

Giương buồm giăng gió chơi vơi,

Lướt bể chơi trăng mải miết.”

Nhân vật trữ tình hiện lên với hình ảnh của một tráng trí có tâm hồn phóng khoáng thích du ngoạn để thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên. Dường như với người khách nhàn tản ấy thì không gì bằng việc chơi vơi trên sống nước, mải miết nhặt ánh trăng vàng, thả hồn với thiên nhiên, thắng tích cùng một tâm hồn đong đầy gió trăng. Thế nhưng cái thú tiêu dao đối với khách không chỉ là để thưởng thức vẻ đẹp của đất nước mà còn là nghiên cứu cảnh trí và bồi bổ tri thức. Người xưa có câu: “Nuốt tám chín cái đầm vân mộng vào bụng để đo chí làm trai”. Vậy mà du khách lại nói: “Đầm vân mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều / Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”. Có thể thấy rằng, nhân vật khách mang một khát vọng lớn lao, hoài bão cháy bỏng được đi nhiều nơi, trải nhiều điều. Tráng trí bốn phương, học vấn uyên thâm và ước vọng đó đồng thời cũng là của Trương Hán Siêu.

Điều đó được gợi lên qua hai loại địa danh: loại đi qua bằng sách vở, trí tưởng tượng như Cửu Giang, Nguyên Tương, Vũ Huyệt… và loại đi qua bằng thực tế trải nghiệm như Đông Triều Bạch Đằng, Đại Thần… Nhân vật khách học theo Tư Mã Thiên, coi những cuộc du ngoạn như để mở mang trí thức cho bản thân và lịch sử nước nhà. Khách không chỉ đến thăm danh lam thắng cảnh mà còn đặt chân đến những nơi được coi là chứng tích lịch sử để rồi được cảm nhận lịch sử trong một ko gian thực tế, khoáng đạt. Đó chính là minh chứng cho tình yêu thiên nhiên, thích du ngoạn của khách. Giống như Tản Đà từng viết: “giang hồ mê chơi quên quê hương”. Hơn nữa các không gian mà khách nói đến là những nơi rất rộng lớn, mênh mông, tự do và khoáng đạt khiến họ giương buồm giong gió lướt bể chơi trăng mải miết mà vẫn chưa thỏa. Qua đây, tác giả càng làm nổi bật cốt cách thanh cao của kẻ sĩ: yêu thiên nhiên, sống tự do chan hòa, coi thường địa vị tiền tài phù phiếm của đời người.

Trước vẻ thơ mộng của Bạch Đằng giang, khách phải dừng lại để ngắm cho kĩ và nghĩ cho thấu. Sông Bạch Đằng hiện lên với một bề rộng bát ngát và một chiều dài mênh mông. Thời điểm cuối thu, sóng biếc nhấp nhô cuồn cuộn. nước trời hòa cùng với màu xanh bao la. Những con thuyền nối đuôi nhau trên sông, theo sau những con sóng vẫy vùng. Quả là cảnh sông nước hùng vĩ lại nên thơ đến lạ! Tác giả đã dùng bút pháp tả thức, khắc họa cảnh núi non bờ bãi của Bạch Đằng giang. Phong cảnh ba thu hiu hắt đượm buồn như báo trước ngã rẽ của cảm xúc. Trong cái nên thơ trữ tình, sông Bạch Đằng cũng tiềm tàng những dấu tích của chiến công lịch sử: “bờ lau san sát bến lách đìu hiu/ sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”.

Cảm xúc về chiến trường xưa trong quá khứ khiến nhà thơ như nhìn thấy sóng chìm giáo gãy. Trên đống gò hoang là xương trắng phơi đầy của những người đã bỏ mình trong trận đánh lịch sử, giống như trong thơ của Nguyễn Trãi: “ngạc chặt kình băm non lởm chởm/ giáo chìm gươm gãy bãi giăng giăng”. Trương Hán Siêu như một người họa sĩ vẽ lên những nét bút rất mượt mà gợi cảm, ẩn dụ khiến người ta liên tưởng xa xôi và mới mẻ. Những câu văn biền ngầu như những con ngựa sóng đôi tạo nên hiệu quả nghệ thuật rất giá trị. Tự hào là thế nhưng đâu đó trong tác giả vẫn là nỗi tiếc nuối, cảm thương rất xúc động vì chiến trường oanh liệt giờ đã trơ trọi hoang vu. Thời gian đã phủ một lớp bụi mờ trên những trang sử vàng:”buồn vì cảnh thảm, đứng thẳng giờ lâu/ thương nỗi anh hùng đâu vắng tá”/ tiếc thay dấu vết luống còn lưu!”. Cũng trong mạch cảm xúc đó, nhân vật khách bâng khuâng một nỗi niềm tiếc thương, biết ơn các vị anh hùng xưa đã đem xương máu để đổi lấy hòa bình. Đứng trước dòng chảy lịch sử, khách cất lên lời ca đầy tình nghĩa thủy chung uống nước nhớ nguồn.

Kết thúc bài phú là phần bình luận của khách với các bô lão về sông Bạch Đằng, về đất nước và con người Đại Việt. Sông Bạch Đằng đã trở thành mồ chôn lũ giặc, là tấm gương thanh lọc phán xét công minh hiền hậu với chân lí ngàn đời: những kẻ bất nghĩa như Lưu Cung thì tiêu vong còn những người anh hùng như Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo sẽ được lưu danh tiếng thơm muôn thưở. Khách nối tiếp các bô lão ca ngợi sự anh minh của 2 vị thánh quân là Trần Nhân Tông và Trần Thánh Tông đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ nước: “bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao”. Nói như vậy, tác giả muốn khằng định nhân tố quan trọng làm nên chiến thắng là đức độ của người lãnh đạo, là yêu nước thương dân, là tinh thần đoàn kết và cảnh giác trước giặc ngoài. Điều này đã nâng ý nghĩa nhân văn của tác phẩm lên tầng sâu sắc và khái quát hơn.

Lời ca của khách đã khép lại bài phú đồng thời ngợi ca hào khí Đông A, gợi lại không khí hào hùng của âm hưởng cuộc chiến. Qua nhân vật khách tác giả thể hiện niềm tự hào tự tôn dân tộc rất sâu sắc. Lời văn linh hoạt hàm súc đan xen yếu tố tự sự biểu cảm. Vì thế tác phẩm được coi là đỉnh cao của thể phú trong kho tảng văn học trung đại Việt Nam. Hơn thế nữa, bài phú còn gửi gắm nhiều quan niệm nhân sinh và triết lí tích cực rất cần thiết trong cuộc sống con người. Quả là áng văn hay sang mãi đến muôn đời!

Phân tích nhân vật khách trong bài thơ Phú sông Bạch Đằng - mẫu 3

Văn học dân tộc đã từng ghi lại biết bao nhiêu những hình tượng đẹp. Là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn với bao nỗi trăn trở sục sôi về tinh thần tướng sĩ trong bài hịch bất hủ. Là vua Lí Công Uẩn đầy khảng khái, hi vọng về tương lai đất nước trong Chiếu dời đô. Là bậc khai quốc công thần Nguyễn Trãi hào sảng, khí thế trong Đại cáo bình Ngô. Và khoảng sau 50 năm sau chiến thắng trên sông Bạch Đằng, có một Trương Hán Siêu đầy hoài niệm về những chiến công trong lịch sử dân tộc trong Phú sông Bạch Đằng. Nhưng để bộc lộ, giãi bày xúc cảm ấy, bậc nho sĩ thời Trần đã gửi gắm qua hình tượng nhân vật khách, một sáng tạo thành công về mặt nghệ thuật đưa Phú sông Bạch Đằng trở thành một trong số những tác phẩm xuất sắc của thơ văn trung đại.

Theo đặc trưng của loại phú cổ thể, khách là một nhân vật được tác giả hư cấu, tưởng tượng, xây dựng theo hình thức đối đáp với một nhân vật nào đó (trong bài này là với các vị bô lão). Ở Phú sông Bạch Đằng, khách trở thành hình tượng trung tâm. Tác phẩm xét về mặt cấu trúc văn bản vẫn đáp ứng đầy đủ bốn đoạn thông thường (mở, giải thích, bình luận và kết), tuy nhiên cũng hoàn toàn thể cảm nhận bài phú dựa trên mạch cảm xúc của nhân vật khách. Đó là sự bộc bạch cái tráng trí bốn phương tha thiết và là nỗi niềm về cả một thời dĩ vãng oanh liệt của dân tộc năm xưa trên sông Bạch Đằng. Có lẽ bởi vậy nhiều người hiểu rằng khách chính là cái tôi của tác giả, là sự hóa thân tài tình của một bậc thi sĩ, một du sĩ và một đấng anh hùng chất chứa nhiều tâm sự về đất nước. Và mở đầu bài phú, khách đã xuất hiện trong tâm thế của một đấng mặc khách, tao nhân, một nghệ sĩ lãng mạn, phóng khoáng, mang theo cái tráng trí bốn phương.

Khách có kẻ:

Giương buồm giong gió chơi vơi

Học Tử Trường chừ thú tiêu dao

Qua những hình ảnh có tính ước lệ, cường điệu giương buồm giong gió, lướt bể chơi trăng, sớm gõ thuyền, chiều lần thăm khách hiện lên trong dáng vẻ của một con người có tâm hồn khoáng đạt, thích ngao du. Vị mặc khách ấy như thể đang vi vu với gió trăng, trời bể suốt tháng ngày. Hai từ láy chơi vơi, mải miết càng tô đậm thêm sự say mê, đắm chìm trong giấc mộng hải hồ. Phép liệt kê đã đưa khách viễn du đến những cảnh đẹp của Trung Quốc, rồi lại trở về lướt thuyền tới sông Bạch Đằng. Những vùng đất bắc phương kia, dẫu khách chưa từng đặt chân đến, có khi chỉ biết qua sách vở nhưng đã thể hiện sự hiểu biết rộng của một bậc nho sĩ và cái tráng trí bốn phương của kẻ lãng du. Đi để khám phá thiên nhiên, để mở mang tri thức. Vì thế cứ nơi có người đi, đâu mà chẳng biết, dù vài trăm trong dạ cũng nhiều nhưng tráng trí bốn phương vẫn còn tha thiết. Khát vọng, hoài bão được thưởng ngoạn, ngao du cứ thế mà bay bổng. Nên điển tích Tử Trường không phải để học cách ghi chép sử kí, mà là học cái thú tiêu dao. Sự học ấy là để hòa mình vào thắng cảnh, nghiên cứu lịch sử, trau dồi học thức và cũng để giãi bày tâm sự. Thế rồi cảnh ấy cũng hiện ra:

Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều

…Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu

Theo cánh buồm lướt nhẹ, khách từ từ qua từng điểm rồi đến với sông Bạch Đằng. Và một cảnh tượng ngỡ ngàng hiện ra trước mắt: một khung cảnh tuyệt đẹp của mùa thu. Bút pháp miêu tả đầy lãng mạn, một bức tranh thủy mặc trên dòng sông đẹp ở từng đường nét. Có cái bát ngát sóng kình muôn dặm của một Bạch Đằng không bao giờ ngơi nghỉ, có cái thướt tha của những con thuyền như đuôi trĩ một màu và cảnh trời, sắc nước mênh mông như hòa lẫn vào nhau của một Bạch Đằng thơ mộng, hiền hòa. Phải là một tâm hồn yêu thiên nhiên, bằng con mắt của người nghệ sĩ và cả cái cảm quan đầy chất họa, Trương Hán Siêu mới vẽ được một bức tranh mùa thu đẹp như vậy. Cho nên cảm xúc cứ tự nó reo vui, thích thú trong tâm hồn của khách hải hồ. Có thể thấy, ngay ở những dòng đầu tiên của bài phú, khách đã tạo nên một tâm thế với tráng trí bốn phương rộng lớn của một nghệ sĩ lãng mạn, phóng khoáng và một bậc nho sĩ uyên bác.

Niềm xúc cảm trước thiên nhiên đẹp của bậc tao nhân, thi nhân có tráng trí hùng tâm ở trên khiến ta liên tưởng thấy bóng dáng của Nguyễn Bỉnh Khiêm “Thu ăn măng trúc đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” (Nhàn) nhưng họ Trương không bày tỏ đạo lý thanh cao như Trạng Trình; thấy cả bóng dáng Cao Bá Quát “Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng/ Phía nam núi Nam, sóng muôn đợt” (Bài ca ngắn đi trên bãi cát) nhưng môn khách Trần Quốc Tuấn không bộc lộ sự chua xót, bất đắc chí như Cao Tử. Trương Hán Siêu đến với thiên nhiên vừa để thỏa chí lãng du vừa để đáp ứng lòng mong mỏi hiểu biết nhiều hơn về phong cảnh nước mình và giãi bày niềm tự hào về những công hiển hách của cha ông ta trước đây. Bởi vậy, khách mới hiện lên chân dung của một trí thức yêu nước, nặng lòng với non sông. Nhưng ngay trong khoảnh khắc hiện tại, đối diện với Bạch Đằng, cảm xúc vui tươi trước vẻ đẹp của nó chẳng còn, bởi khung cảnh của chiến tích năm xưa giờ chỉ là:

Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu

…Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!

Bút pháp tả thực dường như đã vẽ nên một khung cảnh hoàn toàn đối lập. Khách nhìn về trận địa năm xưa sao ảm đạm, thê lương! Những bờ lau, bến lách qua hai từ láy san sát, đìu hiu mà đượm buồn. Dòng sông cuồn cuộn sóng khí thế năm xưa giờ chỉ còn giáo gãy, xương khô mà bi thảm. Trong khung cảnh ấy, tâm hồn của mặc khách kia bỗng trùng xuống, có ánh mắt u buồn, có cái nín lặng, cúi đầu mà thương tiếc, xót xa, ngậm ngùi. Cảm xúc thay đổi một cách nhanh chóng đầy thương cảm, bởi sức mạnh ăn mòn vạn vật của thời gian đã làm phai mờ dấu tích oai hùng một thời. Mà sau này nhà thơ Nguyễn Trãi cũng không tránh khỏi được điều đó khi tới đây:

Việc trước quay đầu ôi đã vắng

Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng

(Cửa biển Bạch Đằng)

Thế là bao nhiêu thương cảm dồn nén ấy hóa ra lại đẩy lên trong lòng thi nhân một ước vọng được một lần nữa sống lại những khoảnh khắc oai hùng như thuở xưa. Bởi vậy mới có nhân vật các vị bô lão – những người trong cuộc, đã chứng kiến, đã tham gia, giờ đây tái hiện, phục chế lại quá khứ ấy để gieo vào lòng mặc khách niềm tự hào, kiêu hãnh của những chiến thắng lẫy lừng trên dòng sông lịch sử năm xưa. Ca ngợi sông Bạch Đằng là con sông huyền thoại, nổi tiếng nhất quả không sai. Vì hai trận đánh của Trùng Hưng nhị thánh và Ngô chúa năm xưa đã không cho kẻ thù một chút hiển vinh, làm lay động cả trời đất, vũ trụ là ở con sông ấy. Biết bao nhiêu cảm hứng lịch sử ùa về trong lời kể. Tuy nhân vật khách không hề tham gia vào câu chuyện của các vị bô lão, nhưng chúng ta vẫn nhận ra khách tuy ẩn đi mà vẫn hiện ra bằng cảm xúc. Lối kể mang đậm chất ước lệ, cường điệu pha lẫn cảm hứng vũ trụ đã tái hiện sống động, hoành tráng, hào hùng những trận đánh năm xưa.

Từ lúc được thua chửa phân, ánh nhật nguyệt phải mờ, trời đất sắp đổi đến khi kẻ thù tan tác tro bay, hoàn toàn chết trụi, nỗi nhục nhã muôn đời không rửa nổi. Đằng sau tất cả là niềm tự hào, hứng khởi của khách. Bao cảm xúc buồn thương trước đó tan biến, nhường chỗ cho sự kiêu hãnh, mãn nguyện, thán phục về một thuở quá đỗi hào hùng, về một truyền thống yêu nước bất diệt không bao giờ mất. Khách cứ thế mà đồng tình với cách cắt nghĩa nguyên nhân những thắng lợi ấy của các vị bô lão. Cũng là một người am hiểu, thấu trọn lẽ đời và cốt lõi lịch sử, khách nhận ra thiên có thời, địa có lợi nhưng nhân phải có hòa mới làm nên được thành công. Và khách dành trọn sự ngợi ca của mình đến những con người anh hùng ấy, đặc biệt là những bậc thánh đế minh vương biết thu phục lòng dân, giữ cuộc điện an bằng đức cao sáng chói mới thấm nhuần được non sông, mới ghi tạc vào lịch sử những chiến công hiển hách đến vậy. Lời ca cuối cùng của khách như âm vang theo nhịp sóng Bạch Đằng:

Anh minh hai vị thánh quân

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh

Giặc tan muôn thuở thăng bình

Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao

Phải chăng Bạch Đằng giang cuồn cuộn sóng chảy ra biển Đông cũng là lòng người thi nhân cuồn cuộn sóng? Có cái cuồn cuộn mạnh mẽ về một quá khứ xa xưa, nhưng cũng có cái cuồn cuộn cảm khái, ưu tư về thế thời, xã tắc lúc bấy giờ. Khách bởi vậy mà đã khơi dậy những giá trị lịch sử rất đỗi thiêng liêng của dân tộc, đề cao vị trí, vai trò của con người trong lịch sử nhưng cũng ngầm chuyển tải tâm sự thời thế mà ông chẳng thể nói ra.

Qua bút pháp rất đặc trưng của thơ văn trung đại, nhân vật khách đã được khắc họa thành công trong bài phú, trở thành một hình thượng nghệ thuật đặc sắc của văn học thời kỳ này. Có thể nói, khách đã hội tụ, kết tinh hết thảy những phẩm chất con người của chính tác giả. Khách đã khẳng định cái tôi đậm chất nghệ sĩ hoài cổ mà từ đó giúp Trương Hán Siêu chuyển tải những giá trị tư tưởng có tính lịch sử thiêng liêng và truyền thống vẻ vang của dân tộc trong bài phú.

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 10 chọn lọc, hay khác: