X

500 bài văn mẫu lớp 10

Top 100 Cảm nhận về bài thơ Nhàn (Cực hay)


Haylamdo sưu tầm trên 100 bài Cảm nhận về bài thơ Nhàn cực hay gồm dàn ý chi tiết, bài văn phân tích mẫu được tuyển chọn từ các bài văn phân tích đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài thi môn Ngữ văn. Mời các bạn theo dõi:

Top 100 Cảm nhận về bài thơ Nhàn (cực hay)

Top 100 Cảm nhận về bài thơ Nhàn (Cực hay)

Đề bài: Nêu cảm nghĩ của em về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Dàn ý Cảm nhận về bài thơ Nhàn

- l. Hai câu đề

   Câu đầu, nhà thơ dùng số từ "một" lặp lại ba lần, cùng với các danh từ đứng sau chỉ công cụ sinh hoạt: "Một mai, một cuốc, một cần câu".

   Nhịp điệu trong hai câu thơ đầu thể hiện sự thong thả, ung dung:

   "Một mai / một cuốc / một cần câu (2/2/3)

   Thơ thẩn dầu ai / vui thú nào". (4/3).

   Hai câu này gợi lên cuộc sống nghèo, thanh đạm, nhàn nhã, và chan hòa cùng thiên nhiên.

   Tâm trạng của nhà thơ là tâm trạng của một kẻ sĩ "an bần lạc đạo", vượt lên trên nỗi lo lắng bon chen của đời thường để tìm đến cái thú vui của ẩn sĩ.

- 2. Hai câu thực

   a. "Nơi vắng vẻ": nơi thôn quê yên tĩnh: "Chốn lao xao": nơi thành thị, chốn quan trường.

   b. Quan niệm "khôn" và "dại".

   - Khôn: ở nơi đông đúc, theo thói vụ lợi, giành giật, bon chen vinh hoa, phú quý, lợi ích vật chất.

   - Dại: xa lánh lợi lộc, tìm chốn thanh cao, vắng vẻ, sống an nhàn để tu tâm dưỡng tính.

   Quan niệm sống của tác giả như vậy là khác, trái ngược với quan niệm thông thường.

   c. Đối lập giữa "nơi vắng vẻ" với "chốn lao xao", tác giả muốn khẳng định cách sống nhàn cư ẩn dật, xa lánh chôn vinh hoa, chạy theo vật chất tầm thường. Hai vế tương phản, làm nổi bật ý nghĩa, nhấn mạnh phương châm sống của bản thân. Khôn kia là cái khôn của kẻ tiểu trí còn cái dại này là cái dại của bậc đại trí. Tại sao lại như vậy. Vì nắm được thời thế, vì không muốn bụi bặm của xã hội nhiễu nhương vấy bẩn. Hai câu thơ 3, 4 còn thế hiện sự kiên định lối sống, có một chút mỉa mai thói đời, thói người đời và bộc lộ cái cao ngạo của kẻ sĩ.

- 3. Hai câu luận

    "Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

    Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao"

   Các sản vật và khung cảnh sinh hoạt hết sức giản dị, đạm bạc mà thanh cao, lối sống hòa nhập cùng thiên nhiên cỏ cây hoa lá. Đáng chú ý, thán phục hơn là lối sống tuân theo lẽ tự nhiên - mùa nào thức ấy, quê mùa, chất phác.

   Cái thú của cảnh sống nhàn ẩn dật mang tính triết lí của các Nho sĩ là ờ chỗ: trong thời loạn lạc, người có nhân cách cao đẹp phải xa lánh cuộc bon chen tầm thường, tìm đến nơi yên tĩnh, vui thú cùng cỏ cây, vạn vật, an lòng với cảnh nghèo khó, sống hòa mình với thiên nhiên vũ trụ, và giữ được cốt cách thanh cao, trong sạch.

   Giá trị nghệ thuật của hai câu này là ở sức gợi của nó. Gợi cái sự ung dung, điềm nhiên, đạm bạc mà thanh cao, nhẹ nhàng, từ tôn mà kiên nghị của một con người. Một trong những cáu thơ như lời nói thường nhật mà hay hiếm có trong thi ca.

- 4. Hai câu kết

   Hai câu cuối cùng, dựa theo điển tích Trung Hoa nói về cái hư ảo, không thực chất, qua nhanh, có cũng như không, có đấy mà tan ngay đấy cùa giàu sang phú quý. Nhưng dù sao vẫn có chút ngậm ngùi thân thế. Nguyễn Bỉnh Khiêm biết rõ lẽ thường này và coi thường, xem nhẹ giàu sang phú quý chứ không hề có chút ngậm ngùi vì vinh hoa qua như chớp mắt. Ta thấy ông ung dung tự tại mang rượu đến gốc cây nằm uống, nhưng không ngủ đề mơ giấc mơ kia, mà tỉnh táo nhìn nó - sự phú quý đi qua như giấc chiêm bao. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đứng cao hơn một bậc trong sự đối diện với phú quý. Lốì sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đạt tới, ở trên tầm cao trong vắt.

- 5. Quan niệm sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm là gì?

   Quan niệm Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là sống vui thú với lao động, hòa hợp với thiên nhiên, giữ cốt cách thanh cao, xa lánh vòng danh lợi, vinh hoa phú quý.

   Lối sống đó có mặt tích cực nhưng cũng có mặt tiêu cực.

   - Tích cực: không ủng hộ những thế lực xấu và thói xấu trong xã hội, giữ minh trong sạch.

   - Tiêu cực: xa lánh, thoát li cuộc sống hiện thực, không dân thân để góp phần làm cuộc sống tốt đẹp, trong lành hơn.

Cảm nhận về bài thơ Nhàn - mẫu 1

Nền văn học trung đại của nước ta có nhiều tác giả tài năng cùng với các tác phẩm đặc sắc. Nhắc đến văn học trung đại không thể không nhắc đến Nguyễn Bỉnh Khiêm với bài thơ Nhàn. Bài thơ được ông viết khi đã về quê ở ẩn. Mặc dù tựa đề bài thơ là Nhàn nhưng đó không phải là nhàn cư vi bất thiện mà thái độ sống, triết lí sống của tác giả.

Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh rất đời thường:

Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Trước mắt người đọc hiện lên hình ảnh một người nông dân tay cày, tay cuốc. Ngoài việc ruộng vườn, thú vui của họ là ngồi câu cá. Đó là một cuộc sống đầy thư thái, ung dung không vương chút bụi trần. Cuộc sống cứ thơ thẩn với những niềm vui của riêng mình, không quan tâm đến những thú vui của người khác.

Sang đến hai câu thơ tiếp theo nhân vật trữ tình hiện lên với triết lý nhàn:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao

Hai câu thơ có sự đối lập giữa nơi vắng vẻ và chốn lao xao, giữa ta và người, giữa khôn và dại. Cảm nhận ban đầu ta nghĩ tác giả như đang đi ngược lại với đời sống, ngược lại với người đời. Tác giả có dại thật không khi chọn cuộc sống ở một nơi thôn quê vắng vẻ? Đọc những câu thơ tiếp theo ta biết chắc chắn câu trả lời là không. Những người chọn cuộc sống ở chốn lao xao cho rằng mình là người nhưng thực tế, nơi đó là nơi có quá nhiều cạm bẫy. Những con người tham lam thường tìm cách dìm người khác xuống để nâng mình lên. Tác giả chọn cho mình cuộc sống an nhàn, tránh xa danh lợi để giữ cho mình khí chất thanh cao. Đó là cuộc sống hòa mình vào thiên nhiên, giản dị đời thường với:

Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

Cuộc sống nơi thôn quê thứ gì cũng sẵn. Mùa nào thức nấy. Mùa thu có măng trúc, mùa đông có giá. Cuộc sống gắn liền với hồ sen, với ao. Con người khi không phải lo lắng đến địa vị, danh vọng, không phải lo lắng đến cơm áo gạo tiền thì khi ấy mới thật sự là cuộc sống đáng mơ ước. Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm thật đáng ngưỡng mộ.

Từ cuộc sống nhàn của mình, tác giả đã đúc kết ra một triết lý sống:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Công danh, phú quý chỉ là áng phù vân trôi nổi. Có được nó dễ dàng thì cũng nhanh chóng mất đi. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm, phú quý chỉ như một giấc chiêm bao mà thôi. Thời điểm tác giả viết bài thơ này là lúc mà chế độ phong kiến bắt đầu khủng hoảng. Tác giả chọn cuộc sống nhàn tức là chọn cuộc sống không màng đến vinh hoa phú quý. Tác giả đang tự tìm kiếm sự thanh thản trong tâm hồn của mình, không để dục vọng làm vẩn đục tâm hồn.

Qua bài thơ này, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Triết lý sống của tác giả cũng là triết lý sống mà thế hệ sau nên theo đuổi.

Cảm nhận về bài thơ Nhàn - mẫu 2

Nền văn học trung đại đồ sộ đã mang đến cho chúng ta nhiều áng thơ hay, mang giá trị lớn lao. Trong số đó, không thể không nhắc đến bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm, một bài thơ đề cao triết lí sống thanh cao của những vị danh nho đương thời:

“Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú quý, tựa chiêm bao”

Câu thơ đầu mở ra những hình ảnh quen thuộc: “mai, cuốc, cần câu” đều là những công cụ gắn liền với thôn dã, làm hiện lên nhân vật trữ tình với tư thế của một lão nông biết đến ruộng vườn, nhất định không phải tư thế đạo mạo của một bậc đại nho. Câu thơ ngắt nhịp thoải mái, sử dụng lặp lại từ “một” khiến lời thơ vang lên như một tiếng sấm rạch ròi, chứng tỏ nhà thơ đón lấy cuộc sống hết sức vui sướng, niềm vui vì được làm điều mình thích. “Thơ thẩn” là trạng thái ung dung, nhàn nhã, thoải mái, tác giả cảm thấy tự tin vì sự lựa chọn của mình. “Ai” là đại từ phiếm chỉ, khẳng định người khác có thú vui riêng và tác giả cũng vậy. Hai câu đầu khẳng định nhàn không phải là lánh đời mà là sự lựa chọn cho mình có một không gian sống mà mình thấy thích thú, tự do tự tại

Hai câu đầu là lối sống tự do tự tại, hòa mình vào cuộc sống chung thì hai câu sau là sự lí giải sâu sắc về sự lựa chọn ấy:

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao

“Ta” là nhà thơ, “người” là ai, chắc chắn không phải là thiên hạ mà là những kẻ ham công danh lợi lộc. Hai câu thơ có thể hiểu nơi vắng vẻ không phải là nơi lánh đời mà là nơi bản thân mình cảm thấy thích thú, sống thoải mái khác hẳn với chốn quan trường. Chốn thiên nhiên nơi đây là nơi thích hợp nhất để Nguyễn Bỉnh Khiêm tránh xa thói đời ô tập, để giữ cho tâm hồn mình luôn trong sáng và thanh sạch hơn. Bẳng cách nói ngược “dại” mà thực chất là “khôn”, còn “khôn” nhưng thực chất lại là “dại”, tác giả đã sáng suốt lựa chọn lối sống đối lập với bao người, thoát khỏi chốn lợi danh, ganh đua để sống an nhiên và tự tại.

Nhàn là trở về với cuộc sống tự nhiên, thoát khỏi vòng ganh đua lợi lộc, thói tục, không bị vướng vào tiền tài, địa vị và giữ cho tâm hồn mình luôn khoáng đạt bởi:

“Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao”

Mùa nào thì gắn với sự vật ấy, đều có sẵn trong tự nhiên không phải vất vả kiếm tìm. Đây là hình ảnh của cuộc sống tự cung tự cấp nhưng vẫn hết sức đủ đầy và vui vẻ. Phải chăng tác giả đã đan xen vào đó triết lí vô vi của đạo giáo : Không làm gì can thiệp vào quy luật của tự nhiên mà để chúng tự phát triển, đề nghị con người có lối sống thuận theo tự nhiên hay sao? Thức ăn có sẵn trong tự nhiên tuy đạm bạc nhưng không phải là món ăn khoái khẩu, nhưng lại là cái nhàn thanh cao chứ không phải cái nhàn tục của hạng người phú quý, biếng nhác. Vì vậy câu thơ nghe nhẹ bẫng mà thanh thản, lâng lâng một niềm vui, cái nhẹ tênh của một cuộc sống không cần gắng gượng.

Tuy nhiên đến với cuộc sống nhàn phần nào cũng bởi đời ô trọc mà thôi. Có vẻ nhà thơ nhàn mà chưa thực sự nhàn, vẫn nhắc đến chuyện công danh:

“Rượu đến cội cây ta vẫn uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”

Hai câu thơ sử dụng điển Thuần Phong Vũ, thể hiện một cái nhìn bi quan về công danh khi thấy chúng chỉ tựa như một giấc chiêm bao, là áng phù vân, không có giá trị đích thực, không có ý nghĩa. Bởi vậy từ đó thi gia muốn nói con người coi thường phú quý, đứng cao hơn phú quý và không làm nô lệ cho nó. Với cái nhìn như thế, tác giả đã hoàn toàn quay lưng vào công danh, lấy nhàn làm chân lí sống. Vần thơ của cụ Nguyễn có sức cảnh tình với con người cần phải sáng suốt trước lợi lộc trước mắt.

Bài thơ “Nhàn” đề cao một nhân cách sống, một lối sống thanh cao, tránh xa lợi lộc tầm thường, hướng đến lối sống thiện tâm. Tuy nhiên, đặt trong hoàn cảnh thời đại mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đang sống, đó không phải là một giải pháp tốt để có thể cải tạo và thay đổi xã hội.

Cảm nhận về bài thơ Nhàn - mẫu 3

Trong văn học trung đại, có nhiều bài thơ hay và ý nghĩa của các thi sĩ đương thời. Trong đó bài Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những bài thơ tiêu biểu, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn nhân cách của tác giả, tôn cao triết lí sống.

Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Hai câu mở tạo ấn tượng đầu tiên với điệp ngữ “một” được lặp lại ba lần trong một dòng thơ mang tính chất liệt kê các sự vật quen thuộc: “mai”, “cuốc”, “cần câu” những vật dụng rất đỗi quen thuộc mang bóng dáng nhà nông chân chất vừa mang bóng dáng của một tao nhân mặc khách. Chỉ cần vậy thôi, ta đã cảm nhận được đây là một cuộc sống thư thái an nhàn của nhân vật trữ tình. Kết hợp với điệp ngữ “một” là từ láy “thơ thẩn” miêu tả được trạng thái của tác giả. Với dáng người ung dung, thoải mái, trạng thái tâm hồn thanh nhàn an nhiên không vướng bận chút bụi trần. Câu thơ như một lời thách thức của tác giả đối với người đời, mặc dù ai vui thú nào, ta đây vẫn vui thú an nhàn, vui cuộc sống thôn quê. Từ lời thách thức ấy toát lên sự ung dung trong phong thái, thanh thản trong tâm hồn, vui thu điền viên.

Đến với hai câu thực tiếp theo đã khái quát chân dung nhân vật trữ tình và triết lí “nhàn” của thi nhân:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao

Ở đây ta thấy rõ được sự đối lập giữa các sự vật trong hai câu thơ “nơi vắng vẻ” là chốn thôn quê thanh bình, an nhàn vô âu vô lo, ở đó tâm hồn con người hòa nhập với thiên nhiên, còn “chốn lao xao” là nơi quan trường với những đua tranh ghen ghét của danh lợi, ồn ào phiền não. Phải chăng tác giả “dại” nên tìm nơi thôn quê, còn người đời “khôn” tìm đến chốn quan trường, nhưng thật chất ngược lại, xét trong câu thơ, “dại” có nghĩa là khôn, “khôn” có nghĩa là dại. Lối nói ngược mang ý nghĩa mỉa mai: người khôn mà chọn chốn lao xao đầy rẫy những tham lam, dục vọng, luôn phải suy nghĩ đắn đo, và như thế liệu có sung sướng? Phép đối hai câu thơ thực mang nghĩa mỉa mai chế giễu lũ người kia chỉ biết lao đầu vào tham vọng, vào vòng danh lợi. còn tác giả, ông phủ nhận vòng danh lợi ấy bằng cách thể hiện quan điểm, khí chất thanh cao trong sạch. “Nhàn” ở đây chính là cuộc sống thanh cao, tránh xa vòng danh lợi.

Không những tác giả chọn cuộc sống thanh cao, tránh xa tham vọng, tác giả còn hết mình hòa nhập với thiên nhiên, Đến với hai câu luận đã gợi mở cho người đọc về cuộc sống bình dị, giản đơn của nhân vật trữ tình:

Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

Ai cũng biết măng, tre, trúc, giá là đồ ăn dân dã từ thiên nhiên rất dễ tìm thấy, gắn liền với cuộc sống của nhà nghèo nơi thôn dã đậm đà vị quê. Những thức ăn ấy trở nên quen thuộc mỗi ngày trong đời sống sinh hoạt, thu ăn măng trúc trên rừng, mùa đông về ăn giá. Đặc biệt câu thơ: “xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” đã phác họa hình ảnh quen thuộc ở làng quê, lối sinh hoạt dân dã. Khi trở về với thiên nhiên, với làng xóm, Nguyễn Bỉnh Khiêm thực sự hòa mình với thôn quê thuần hậu. Cuộc sống thanh đạm, mang lại thú vui an nhàn, thảnh thơi mùa nào thức nấy, đó là một cuộc sống được nhiều người ngưỡng mộ mà chẳng mấy ai có được. chính cảnh sinh hoạt đời thường ấy đã thể hiện sự đồng điệu nhịp bước của thiên nhiên và của con người. Hẳn phải sống hết mình, sống hòa hợp với thiên nhiên mới có sự đồng điều kì diệu như vậy.

Từ những thứ sinh hoạt đời thường ở những câu thơ trên thì đến với hai câu kết, tác giả đúc kết tinh thần, triết lí sống cao đẹp:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Trong câu thơ, tác giả có sử dụng điển tích “cội cây” ý muốn nói rằng phú quý công danh là thứ phù phiếm ,chỉ là áng phù vân trôi nổi có rồi lại mất như một giấc mơ mà thôi. Đó là một thái độ rất đáng trọng bởi Nguyễn Bỉnh Khiêm sống trong thời đại mà chế độ phong kiến bắt đầu khủng hoảng, nền tảng đạo đức nho giáo bị phá vỡ, rạn nứt, đó là thời đại mà con người lấy tiền làm thước đo cho mọi giá trị khác. Vậy, “nhàn” ở đây là coi thường vinh hoa phú quý. Và ta hiểu rằng “nhàn” ở đây là một triết lí sống chứ không phải quan niệm nhân sinh, không phải là cứu cánh mà chỉ là một phương thức tư duy. Bản chất chữ “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải nhân tâm mà là nhân thân. Nhân mà vẫn phải âu lo việc nước. Nhàn là tìm kiếm sự thanh thản trong tâm hồn chứ không phải là lười nhác, suy cho cùng cũng là giữ gìn danh tiếng của mình, giữ tròn thanh giá của mình trong thời loạn, là lạc đạo vong bần giữ những phần tử gian xảo tranh đua danh lợi. Nhàn là không để dục vọng xấu xa làm mờ ám lương tâm, làm vẩn đục tâm hồn, không tham dự vào vòng danh lợi, còn lòng ái quốc sẽ không bao giờ nguội lạnh.

Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa triết lí và trữ tình thể hiện vẻ đẹp tâm hồn nhân cách ẩn sĩ Nguyễn bỉnh Khiêm, là một tâm hồn yêu thiên nhiên, hòa mình cùng thiên nhiên, phủ nhận danh lợi. Bài thơ mang một triết lí sống đẹp đẽ đáng nể, làm gương cho bao thế hệ mai sau.

Cảm nhận về bài thơ Nhàn - mẫu 4

Nguyễn Bỉnh Khiêm không những là một ông quan thanh liêm và có học vấn uyên thâm, nhưng vì sống trong cảnh quan trường có nhiều bất công cho nên ông đã cáo quan về ở ẩn. Ông lựa chọn một nơi an nhàn, thảnh thơi nơi thôn quê và bài thơ “Nhàn” là một bài thơ viết về những tháng ngày tác giả ở ẩn. Bài thơ đã thể hiện được tiếng lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm về một cuộc sống nhiều niềm vui có biết bao nhiêu an nhàn và thanh thản nơi đồng quê.

Bài thơ Nhàn đã thể hiện được một tâm hồn tràn ngập niềm vui và sự thanh tịnh trong tâm hồn tác giả, với những cảm xúc thanh nhàn chính là tinh thần chủ đạo của bài thơ.

Một mai một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Nguyễn Bỉnh Khiêm thật tài tình khi đã sử dụng điệp từ “một” để có thể vẽ lên trước mắt người đọc một khung cảnh bình dị, đơn sơ nơi quê nghèo. Tác giả cho dù là một mình nhưng không hề đơn độc một chút nào. Ông sử dụng hai câu thơ toát lên sự thanh tịnh của tâm hồn và êm đềm của thiên nhiên ở vùng quê Bắc Bộ mới đẹp làm sao. Hình ảnh cuốc và cần câu đã gợi lại cho chúng ta một sự mộc mạc, một sự chất phác của một lão nông tri điền vui thú điền viên. Thực sự đây cũng là mong ước của biết bao nhiêu người ở thời kỳ phong kiến ngày xưa thế nhưng không phải ai cũng có thể bỏ được chốn quan trường. Từ “thơ thẩn” đã gợi được một cuộc sống cứ đủng đỉnh, ung dung tự tại. Ông đã rời chốn quan trường về với thôn quê.

Đọc đến hai câu thơ thực tiếp theo trong bài thơ Nhàn dường như lại càng khắc họa rõ nét hơn chân dung của một lão nông Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao

Với câu thơ này chúng ta có thể xem là tuyên ngôn sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong những năm tháng sau khi cáo quan về ở ẩn. Ở đây Nguyễn Bỉnh Khiêm lại tự nhận mình “dại” khi tìm nơi vắng vẻ để sống. Thế nhưng đây là cái dại này cũng đã khiến nhiều người ghen tị và ngưỡng mộ. Tác giả thật rất khéo léo trong việc dùng từ ngữ độc đáo, đồng thời cũng đã lột tả được hết phong thái của ông. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cho rằng những người chọn chốn quan trường là những người “khôn”. Đây chính là một cách khen rất tinh tế, khen mà chê, cũng có thể là khen mình và chê người. Thêm vào đó người đọc nhận thấy được tứ thơ ở hai câu này dường như hoàn toàn đối lập nhau từ ngôn ngữ đến dụng ý khái niệm về “dại” – “khôn”, “vắng vẻ” – “lao xao”. Tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm về nơi vắng vẻ để ở liệu đây có phải là trốn tránh trách nhiệm với nước hay không? Với thời thế như vậy thì ông tìm đến nơi vắng vẻ, tránh xa vòng danh lợi chốn quan trường thì khi đó con người mới sống thật là chính mình được. Thực sự có thể nhận thấy được đây là một cốt cách thanh cao, một tâm hồn đáng ngưỡng mộ.

Hai câu thơ luận cũng đã khiến cho người đọc về cuộc sống bình dị, giản đơn và thanh cao của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

Chỉ sử dụng một cặp câu đã lột tả hết tất cả cuộc sống sinh hoạt và thức ăn hằng ngày của “lão nông nghèo”. Cứ mùa nào đều tương ứng với thức ăn đấy, tuy những món ăn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không có sơn hào hải vị nhưng những thức ăn có sẵn này dường như lại đậm đà hương vị quê nhà. Tất cả như đã khiến tác giả an phận và hài lòng.

Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Bài thơ khép lại bởi hai câu thơ triết lý này cũng đã đúc rút được về quan điểm, cách nhìn nhận của Nguyễn Bỉnh Khiêm về cuộc sống về vinh hoa. Đối với ông thì vinh hoa, phú quý như một giấc chiêm bao đến rồi đi.

Với vẻn vẹn 8 câu thơ, bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khiến người đọc ngưỡng mộ và khâm phục cốt cách, tinh thần và phong thái của một vị quan không màng danh lợi, chi mong yên ổn khi về già.

Cảm nhận về bài thơ Nhàn - mẫu 5

Có thể nói rằng với Nhàn là bài thơ được sáng tác trong thời gian Nguyễn Bỉnh Khiêm về quê ở ẩn. Chữ “nhàn” của ông đã thể hiện được thái độ sống, một triết lí sống vô cùng rõ ràng. Và triết lí ấy được gói gọn chỉ trong một chữ “nhàn”.

Mở đầu bài thơ tác giả viết một câu kể như sau:

Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Ta có thể thấy được ngay hai câu thơ mở đầu tạo ấn tượng đầu tiên với điệp ngữ “một” được lặp lại ba lần ở trong một câu thơ. Nó không chỉ mang tính chất liệt kê các sự vật quen thuộc đó chính là hình ảnh “mai”, “cuốc”, “cần câu” mà còn là những vật dụng rất đỗi quen thuộc mang bóng dáng nhà nông vô cùng chân chất vừa mang bóng dáng của một “Tao nhân mặc khách ngâm nga” vậy. Đó chính là một hình dáng ung dung thoải mái, thêm vào đó là một trạng thái tâm hồn thanh nhàn an nhiên không vướng bận chút bụi trần.

Có thể nhận thấy được câu thơ như một lời thách thức của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với người đời, và cho dù ai vui thú nào đi chăng nữa thì ta đây vẫn vui thú an nhàn, vui cuộc sống thôn quê nhất. Cũng chính từ những lời thách thức đó dường như cũng đã toát lên được phong thái thật thanh thản trong tâm hồn và thật vui thú điền viên của một lão nông già.

Khi đọc đến với hai câu thực tiếp theo đã khái quát chân dung nhân vật trữ tình và triết lí “nhàn” của thi nhân đã thể hiện qua câu:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao

Không khó khi nhận thấy được sự đối lập giữa các nhân vật trong hai câu thơ thể hiện đó chính là “nơi vắng vẻ” và chốn quê thật thanh bình vô cùng an nhàn, vô lo vô nghĩ. Thực sự đó chính là tâm hồn của con người luôn luôn hòa nhập cùng với thiên nhiên. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm thì “chốn lao xao” cũng được ám chỉ đến nơi quan trường với những vòng danh lợi, ghen ghét và sự đố kỵ nữa. Và phải chăng tác giả “dại” cho nên ông mới tìm nơi thôn quê, còn người đời “khôn” tìm đến chốn quan trường.

Nhưng xét trong vần thơ này lại hoàn toàn ngược lại, “dại” có nghĩa là khôn, và từ “khôn” có nghĩa là dại. Bạn có thể nhận thấy được chính lối nói ngược mang ý nghĩa mỉa mai: người khôn mà chọn chốn lao xao đầy rẫy những tham lam, dục vọng, luôn luôn phải suy nghĩ đắn đo, khiến cuộc sống luôn vội vã. Hai câu thực như mang nghĩa mỉa mai chế giễu lũ người kia chỉ biết lao đầu vào tham vọng, chính vào vòng danh lợi. Còn đối với tác giả thì ông dường như cũng đã phủ nhận vòng danh lợi ấy bằng cách thể hiện quan điểm, khí chất thanh cao trong sạch.

Qua 4 câu thơ ta cũng thấy rõ rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lựa chọn cuộc sống thanh cao, hòa nhập với thiên nhiên và tránh xa tham vọng. Khi đọc đến hai câu luận cũng đã gợi mở cho người đọc về một cuộc sống vô cùng bình dị của nhân vật trữ tình.

Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

Măng, tre, trúc, giá được xem chính là đồ ăn dân dã từ xa xưa mà con người ta vẫn thường ăn. Nó gắn liền với cuộc sống thôn quê chất phác và hết sức quen thuộc trong đời sống. Còn với câu thơ:

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Câu thơ khiến ta nhớ về những hình ảnh quen thuộc ở làng quê, về cái lối sinh hoạt dân dã. Khi trở về với thiên nhiên trở về với làng xóm. Tác giả thực sự hòa mình với thôn quê thuần hậu, người đọc có thể nhận thấy được cuộc sống thanh đạm, một cuộc sống dường như cũng đã mang lại thú vui an nhàn, thảnh thơi mùa nào thức nấy. Thực sự đó là một cuộc sống được nhiều người ngưỡng mộ mà chẳng mấy ai có được. Chỉ là một cảnh sinh hoạt đời thường đơn giản nhưng nó lại thể hiện sự đồng điệu nhịp bước của thiên nhiên, đồng điệu với con người.

Cũng chính từ những thứ sinh hoạt đời thường này tác giả đã đến với hai câu kết, với sự đúc kết tinh thần, triết lí sống cao đẹp nhất:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Điển tích “cội cây” xuất hiện như mang được ngụ ý muốn nói rằng phú quý công danh là thứ phù phiếm và đồng thời cũng chỉ là áng phù vân trôi nổi có rồi lại mất như một giấc mơ mà thôi. Và qua đây ta có thể nhận thấy đây cũng chính là một thái độ rất đáng trọng bởi tác giả đã sống trong thời đại mà chế độ phong kiến bắt đầu khủng hoảng. Trong xã hội đó khi nền tảng đạo đức nho giáo bị phá vỡ, rạn nứt và thực sự đó là thời đại mà con người lấy tiền làm thước đo cho mọi giá trị khác.

Tóm lại, Nhàn đã thể hiện rõ sự kết hợp hài hòa giữa triết lí và trữ tình thể hiện vẻ đẹp tâm hồn nhân cách ẩn sĩ Nguyễn bỉnh Khiêm. Đồng thời tác phẩm cũng thể hiện rõ một tâm hồn yêu thiên nhiên, hòa mình cùng thiên nhiên, phủ nhận danh lợi, làm gương cho bao thế hệ mai sau nữa.