X

500 bài văn mẫu lớp 8

Chứng minh đoạn trích Nước Đại Việt ta là một bản tuyên ngôn bất hủ năm 2023


Chứng minh đoạn trích Nước Đại Việt ta là một bản tuyên ngôn bất hủ năm 2023

Bài văn Chứng minh đoạn trích Nước Đại Việt ta là một bản tuyên ngôn bất hủ gồm dàn ý chi tiết, 2 bài văn phân tích mẫu được tuyển chọn từ các bài văn phân tích đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài kiểm tra, bài thi môn Ngữ văn 8.

Chứng minh đoạn trích Nước Đại Việt ta là một bản tuyên ngôn bất hủ năm 2023 - Văn mẫu lớp 8

Bài văn mẫu 1

   Bình ngô đại cáo ta áng thiên cổ hùng văn, bản tuyên ngôn độc lập bất hủ của dân tộc. Ra đời cách đây đã hàng trăm năm nhưng mỗi khi đọc lên ta vẫn thấy rõ khí thế anh dũng, hào hùng của nó. Đoạn trích Nước Đại Việt ta là phần thể hiện rõ nhất tính chất tuyên ngôn của một bản tuyên ngôn độc lập. Nó vừa cho thấy vị thế của dân tộc, vừa cho thấy không khí chiến thắng của toàn dân Việt Nam.

   Bình Ngô đại cáo là một trong ba bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc ta. Nó ra đời vào cuối năm 1427 sau khi ta đã dẹp xong quân Minh xâm lược. Thừa lệnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã viết nên bài cáo này. Bình Ngô đại cáo không đơn thuần chỉ là bản tổng kết lịch sử 15 năm kháng chiến chống quân Minh xâm lược, hơn hết nó còn là bản tuyên ngôn độc lập, khẳng định chủ quyền, sự tự do của dân tộc ta.

   Mở đầu bài Đại cáo, Nguyễn Trãi đã nêu lên tư tưởng nhân nghĩa, đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, chỉ đạo toàn bộ bài đại cáo:

   Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

   Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

   Tiếp thu tư tưởng Nho gia, đối với Nguyễn Trãi nhân nghĩa chính là yên dân, làm cho nhân dân có cuộc sống yên ổn, ấm no hạnh phúc. Và để làm được điều đó, trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ có giặc xâm lược thì phải trừ bạo ngược – giặc Minh. Chỉ khi làm được cả hai điều đó thì mới thực là nhân nghĩa. Đây là tư tưởng hết sức nhân văn và cao đẹp. Để rồi sau đó Nguyễn Trãi đã khẳng định sự tồn tại, độc lập của dân tộc ta là một chân lí không thể thay đổi:

   Như nước Đại Việt ta từ trước

   Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

   Núi sông bờ cõi đã chia

   Phong tục Bắc Nam cũng khác

   Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nên độc lập

   Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

   Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau

   Song hào kiệt đời nào cũng có

   Tám câu thơ ngắn gọn, súc tích nhưng đã thâu tóm toàn bộ ý nghĩa của một bản tuyên ngôn độc lập. Nguyễn Trãi không chỉ dừng lại ở việc khẳng định chủ quyền trên phương diện địa lý như Nam quốc sơn hà:

   Nam quốc sơn hà nam đế cư

   Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

   Mà ông còn tiến một bước xa hơn, sâu sắc hơn khi khẳng định chủ quyền đất nước trên phương diện lịch sử, phong tục tập quán. Văn hiến, phong tục tập quán là những nét đẹp truyền thống lâu đời, không phải ngày một ngày hai là có thể tạo nên, mà nó là quá trình kiến tạo dài lâu, sàng lọc để lấy lại những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của dân tộc, bởi vậy khi khẳng định có một nền “văn hiến đã lâu” “phong tục Bắc Nam cũng khác” chính là lời khẳng định mạnh mẽ và đanh thép nhất chủ quyền vốn có của dân tộc ta. Nguyễn Trãi đã tiến thêm một bước, ý thức sâu sắc và bền vững hơn về chủ quyền của dâ tộc. Một dân tộc độc lập không chỉ có lãnh thổ riêng mà còn phải có cả văn hóa, văn hiến – cái hồn cốt của một dân tộc. Nhớ lại dân tộc ta một nghìn năm Bắc thuộc, dù mất đi lãnh thổ nhưng tiếng nói, văn hóa còn bởi vậy mà đất nước không hề mất, bởi vậy mà vẫn khơi dậy được tinh thần chiến đấu quật cường để giành lại độc lập cho dân tộc. Như vậy, ta có thể thấy được ý nghĩa to lớn trong bản tuyên ngôn của Nguyễn Trãi.

   Bên cạnh đó, Nguyễn Trãi cũng khẳng định chủ quyền trên phương diện lịch sử với các triều đại song song tồn tại cùng nhau suốt bao thế kỉ. Cùng với việc khẳng định anh hùng hào kiệt trong mỗi thời để làm nổi bật, khẳng định hơn nữa chủ quyền của dân tộc ta. Quan điểm về quốc gia dân tộc của Nguyễn Trãi đã trở thành chân lí bất hủ muôn đời, khẳng định chân lí thời đại: một đất nước chỉ thực sự tự do, độc lập khi có một lãnh thổ, văn hiến, phong tục tập quán và truyền thống riêng. Tính chất chính nghĩa đó đã tạo nên sức mạnh diệu kì, làm nên những chiến công oanh liệt cho dân tộc:

   Lưu Cung tham công nên thất bại

   Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong

   Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

   Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.

   Lịch sử vẫn còn ghi dấu, những dẫn chứng hùng hồn, xác thực đã một lần nữa khẳng định, thành quả của ngày hôm nay là xương máy của biết bao thế hệ đi trước. Đây là hành trình đấu tranh đầy gian khổ và thấm đẫm xương máu.

   Đoạn trích Nước Đại Việt ta chính là bản tuyên ngôn độc lập hào hùng nhất của cha ông ta. Bài cáo với khí thế bừng bưng, lòng tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc đã cho thấy sức sống mạnh mẽ, vững bền của dân tộc ta trong lịch sự xây dựng và bảo vệ đất nước. Trải qua nhiều thế kỉ nhưng Bình Ngô đại cáo vẫn giữ nguyên giá trị – bản đại cáo tuyên ngôn độc lập của dân tộc.

Bài văn mẫu 2

   Nhắc đến những áng thiên cổ hùng văn của mọi thời đại, phải kể đến Bình Ngô đại cáo. Bình Ngô đại cáo là bản tuyên cáo khẳng định cộng đồng Đại Việt với tư cách một quốc gia độc lập và tổng kết sự nghiệp bình Ngô Phục quốc đã kết thúc thắng lợi, đất nước đã giành được độc lập toàn vẹn từ tay kẻ thù, và bắt đầu thời kỳ xây dựng phát triển mới. Với những ý nghĩa như vậy Bình Ngô đại cáo đã trở thành bản tuyên ngôn độc lập bất hủ của dân tộc Đại Việt. Nội dung tuyên ngôn được thể hiện tập trung trong đoạn trích Nước Đại Việt ta.

   Trong lịch sử nhân loại đã có không ít những bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng, gây được tiếng vang lớn trong dư luận. Riêng dân tộc Việt Nam cũng đã có tới ba bản tuyên ngôn độc lập bất hủ: Sông núi nước Nam (Lý Thường Kiệt), Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi) và Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh). Ba bản tuyên ngôn ấy không những là kiệt tác văn chương mà còn là ý chí độc lập tự chủ của một dân tộc biết tự khẳng định mình, tự hào về truyền thống và sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì sự tồn vong của quốc gia, dân tộc.

   Bình Ngô đại cáo là một trong ba bản tuyên ngôn độc lập ấy, ra đời vào cuối năm 1427, ngay sau khi đại nghiệp chống Minh thu được thắng lợi.

   Mở đầu bài Cáo, Nguyễn Trãi nêu ra nguyên lý nhân nghĩa có tính chất là tư tưởng chủ đạo cho cả bài Cáo:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân 
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

   Đó là tư tưởng nhân nghĩa vì dân vì nước hết sức cao đẹp và tiến bộ. Ngay sau đó, Nguyễn Trãi khẳng định chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt:

Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền vãn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam củng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bèn xưng đế một phương,
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.

   Tám câu văn đã thâu tóm cả một quan điểm lớn về quốc gia và dân tộc.

   Trước Nguyễn Trãi, Lý Thường Kiệt cũng đã nêu lên một quan điểm về quốc gia dân tộc:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư 
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư 
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm 
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

   Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Lý Thường Kiệt đã khẳng định một chân lí tự nhiên không thể chối bỏ: Sông núi nước Nam là của người Nam. Đó là đạo lí hợp với lẽ trời và lòng người. Người Việt ta coi trọng đạo lí ấy và sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì nó. Bài thơ Sông núi nước Nam ra đời và được tuyên đọc ngay trước cuộc kháng chiến chống Tống lần hai, đã thổi bùng lên cả một hào khí chiến đấu và chiến thắng giặc thù. Âm hưởng của bài thơ ngân vang bên chiến tuyến Như Nguyệt ngày ấy vẫn còn vang vọng đến tận hôm nay. Nguyễn Trãi đã kế thừa tư tưởng của Lý Thường Kiệt về quốc gia, dân tộc và nâng nó lên một bước phát triển mới, sâu sắc và toàn diện hơn nhiều.

   Nếu như quan niệm về quốc gia, dân tộc của Lý Thường Kiệt mới chỉ dừng lại ở hai yếu tố cơ bản: chủ quyền và lãnh thổ, thì đến Nguyễn Trãi, quan điểm ấy được bổ sung thêm ba yếu tố rất quan trọng. Nguyễn Trãi khẳng định: nước Đại Việt là của dân tộc Việt. Dân tộc ấy là một dân tộc có nền văn hiến lâu đời, có núi sông bờ cõi riêng, có phong tục tập quán riêng, có lịch sử riêng và có chế độ chủ quyền riêng.

   Điều đáng nói ở đây là Nguyễn Trãi đã ý thức được sâu xa và bền vững về độc lập chủ quyền dân tộc. Một dân tộc độc lập không chi là một dân tộc có độc lập và chủ quyền riêng, mà điều cần thiết không thể thiếu là dân tộc ấy phải có một nền văn hiến lâu đời. Nền văn hiến ấy chính là truyền thống văn hóa tốt đẹp. Nền văn hóa ấy kết hợp với phong tục tập quán sẽ làm nên bản sắc dân tộc. Nhớ lại hơn một ngàn năm Bắc thuộc bọn phong kiến phương Bắc ra sức đồng hóa dân tộc nhưng chúng đã thất bại thảm hại. Truyền thống văn hiến đã tạo nên ý chí kiên cường bất khuất để dân tộc ta tồn tại và phát triển trong suốt đêm trường đen tối ấy. Và cũng chính truyền thống văn hiến làm nên ý chí quật khởi, tạo nên một bề dày lịch sử oanh liệt hiếm có.

   Quan điểm về quốc gia dân tộc của Nguyễn Trãi đã trở thành một chân lí bất hủ và ngời sáng: chân lí độc lập dân tộc. Chân lí độc lập dân tộc dược ánh sáng tư tưởng nhân nghĩa vì dân, vì nước chiếu rọi đã tạo nên sức mạnh diệu kì:

Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong 
Cửa Hàm Tử bát sống Toa Đồ,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã. 

   Bằng những chứng cứ xác thực và hùng hồn, Nguyễn Trãi đã thêm một lần nữa khẳng định độc lập chủ quyền dân tộc với niềm tự hào cao độ. Theo Nguyễn Trãi, nền độc lập ấy đâu phải tự nhiên vốn có, mà đó là kết quả của một quá trình đấu tranh lâu dài và gian khổ đầy hi sinh; đó là xương máu của bao lớp cha anh đã ngã xuống để xây đắp lên.

   Nếu như toàn bộ bài Cáo là một bản anh hùng ca lẫm liệt về một dân tộc với hào khí thời đại, khát vọng chiến thắng kẻ thù để giành lấy nền độc lập thái bình muôn thuở thì đoạn trích Nước Đại Việt ta chính là tuyên ngôn về hào khí, khí phách, khát vọng ấy. Năm tháng qua đi nhưng ý nghĩa của bản tuyên ngôn vẫn còn ngời sáng đến muôn đời.

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 8 chọn lọc, hay khác: