Trọn bộ 500 bài văn mẫu lớp 8 năm 2023
Trọn bộ 500 bài văn mẫu lớp 8 năm 2023
Nhằm mục đích giúp học sinh củng cố kiến thức và đạt điểm cao trong các bài thi môn Ngữ văn lớp 8, tài liệu Trọn bộ 500 bài văn mẫu lớp 8 hay nhất gồm các bài dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy, các bài văn phân tích tác phẩm, nghị luận xã hội giúp bạn viết bài văn hay, đủ ý hơn.
- Top 100 Thuyết minh về cây bút bi (cực hay)
- Top 100 Thuyết minh về bánh chưng (cực hay)
- Top 100 Thuyết minh về trò chơi dân gian (cực hay)
- Top 100 Phân tích bài thơ Ngắm trăng (cực hay)
- Top 100 Ông đồ (cực hay)
- Top 100 Kể lại những kỷ niệm ngày đầu tiên đi học (cực hay)
- Top 100 Khi con tu hú (cực hay)
- Top 100 Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh (cực hay)
- Top 100 Hịch tướng sĩ (cực hay)
- Top 100 Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó (Cực hay)
- Top 100 bài thơ Quê hương (cực hay)
- Top 100 Nước Đại Việt ta (cực hay)
- Top 100 Thuyết minh về cái phích nước (Cực hay)
- Top 100 Tuổi trẻ và tương lai đất nước (Cực hay)
Top 100 Kể về một lần em mắc khuyết điểm khiến thầy, cô giáo buồn (Cực hay)
- Top 100 Phân tích bài thơ Đi đường (Cực hay)
- Top 100 Thuyết minh về áo dài (Cực hay)
- Top 100 Cây tre Việt Nam (Cực hay)
- Top 100 Học đi đôi với hành (Cực hay)
- Top 100 Kể về một kỉ niệm đáng nhớ thời ấu thơ làm em nhớ mãi (Cực hay)
- Top 100 Phân tích nhân vật lão Hạc (Cực hay)
Tôi đi học
Trong lòng mẹ
- Phân tích đoạn trích Trong lòng mẹ năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
- Phân tích nhân vật bà cô trong đoạn trích Trong lòng mẹ năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
Tức nước vỡ bờ
- Phân tích đoạn trích Tức nước vỡ bờ năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
- Phân tích nhân vật chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
Viết bài tập làm văn số 1
- Tôi thấy mình đã khôn lớn năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
- Người ấy sống mãi trong lòng tôi năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
- Kể lại những kỉ niệm ngày đầu tiên đi học năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
Lão Hạc
- Phân tích truyện ngắn Lão Hạc năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
- Phân tích nhân vật Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
- Phân tích nhân vật ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
Cô bé bán diêm
- Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
- Cảm nghĩ về nhân vật cô bé bán diêm trong truyện ngắn Cô bé bán diêm năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
Đánh nhau với cối xay gió
- Cảm nhận của em về đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
- Phân tích đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
Chiếc lá cuối cùng
- Phân tích truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
- Cảm nghĩ về Chiếc lá cuối cùng của O Hen-ri năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
- Phân tích nhân vật Xiu, Giôn-xi và cụ Bơ-men trong Chiếc lá cuối cùng năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
- Phân tích hình ảnh chiếc lá cuối cùng trong truyện Chiếc lá cuối cùng năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
- Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
Hai cây phong
- Cảm nhận về đoạn trích Hai cây phong năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
- Phân tích đoạn trích Hai cây phong năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
Viết bài tập làm văn số 2
Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000
Ôn dịch, thuốc lá
- Phân tích văn bản Ôn dịch, thuốc lá năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
- Cảm nghĩ về văn bản Ôn dịch, thuốc lá năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
Bài toán dân số
Viết bài tập làm văn số 3
- Giới thiệu đôi dép lốp trong kháng chiến năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
- Thuyết minh về chiếc kính đeo mắt năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
- Thuyết minh về cây bút bi năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
- Thuyết minh về chiếc áo dài truyền thống của người phụ nữ Việt Nam năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
Đập đá ở Côn Lôn
- Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
- Cảm nghĩ về bài thơ Đập đá ở Côn Lôn năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
Tôi đi học
- Phát biểu cảm nghĩ của em về dòng cảm xúc của nhân vật tôi trong truyện ngắn Tôi đi học năm 2023 (dàn ý - 3 mẫu)
- Phân tích truyện ngắn Tôi đi học của Thanh Tịnh
- Dàn ý Cảm nhận về truyện ngắn Tôi đi học của Thanh Tịnh
- Cảm nhận về truyện ngắn Tôi đi học của Thanh Tịnh
- Dàn ý phân tích các hình ảnh so sánh trong truyện ngắn Tôi đi học
- Phân tích các hình ảnh so sánh trong truyện ngắn Tôi đi học của Thanh Tịnh
- Cảm nhận nhân vật tôi trong truyện ngắn Tôi đi học
- Phân tích tâm trạng nhân vật "tôi" trong truyện ngắn Tôi đi học
Trong lòng mẹ
- Cảm nhận về nhân vật bé Hồng trong đoạn trích Trong lòng mẹ năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
- Suy nghĩ của em về tình mẫu tử trong đoạn trích Trong lòng mẹ năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
- Phân tích đoạn trích Trong lòng mẹ
- Chứng minh nhận định: "Hồi kí của Nguyên Hồng không phải là những trang ghi chép một cách giản đơn, ..."
- Phân tích nhân vật bà cô trong đoạn trích Trong lòng mẹ của Nguyên Hồng
- Dàn ý Phân tích nhân vật bé Hồng trong truyện ngắn Trong lòng mẹ
- Phân tích nhân vật bé Hồng trong đoạn trích Trong lòng mẹ
- Phân tích nhân vật bà mẹ và bé Hồng trong tập hồi kí Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng
Tức nước vỡ bờ
- Phân tích nhân vật Cai lệ và người nhà lí trưởng trong tác phẩm Tức nước vỡ bờ năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
- Suy nghĩ về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
- Phân tích đoạn trích Tức nước vỡ bờ
- Phân tích nhân vật vợ chồng Nghị Quế trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố
- Phân tích bộ mặt tàn ác của lũ tay sai phong kiến qua đoạn trích Tức nuớc vỡ bờ
- Dàn ý phân tích diễn biến tâm lí của chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ
- Phân tích diễn biến tâm lí của chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ
- Phân tích nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ
Viết bài tập làm văn số 1
- Dàn ý Em hãy kể lại kỉ niệm về ngày đầu tiên đi học
- Dàn ý Tôi thấy mình đã khôn lớn
- Tôi thấy mình đã khôn lớn
- Dàn ý Người ấy (bạn, thầy, ...) sống mãi trong lòng tôi
- Người ấy (bạn, thầy, ...) sống mãi trong lòng tôi
- Dàn ý Kể về một lần em mắc khuyết điểm khiến Thầy Cô giáo buồn
- Kể về một lần em mắc khuyết điểm khiến thầy cô giáo buồn
- Dàn ý Kể về kỉ niệm đáng nhớ với con vật nuôi
- Kể về kỉ niệm đáng nhớ với con vật nuôi
- Kể về kỉ niệm đặc biệt nhất trong kì nghỉ hè vừa qua
Lão Hạc
- Phân tích diễn biến tâm trạng của Lão Hạc khi bán Cậu Vàng năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
- Suy nghĩ về cái chết của Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
- Phân tích truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao
- Phân tích hai nhân vật cha và con trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao
- Dàn ý Phân tích nhân vật ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc
- Phân tích nhân vật ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao
- Dàn ý Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố mà tìm hiểu họ
- Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố mà tìm hiểu họ
Cô bé bán diêm
- Phát biểu những cảm nghĩ của em về truyện Cô bé bán diêm nói chung và về đoạn kết của truyện nói riêng năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
- Dàn ý Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm
- Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm
- Dàn ý Cảm nghĩ truyện ngắn Cô bé bán diêm
- Phát biểu cảm nghĩ về truyện Cô bé bán diêm của An-đéc-xen
- Cảm nghĩ về nhân vật cô bé bán diêm trong truyện ngắn cùng tên
- Cảm nhận của em về truyện ngắn Cô bé bán diêm của An-đéc-xen
Đánh nhau với cối xay gió
- Phân tích đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió của Xéc-van-tét
- Cảm nhận về đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió của Xéc-van-tét
- Dàn ý Phân tích nhân vật Đôn-ki-hô-tê trong đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió
- Phân tích nhân vật Đôn-ki-hô-tê trong đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió
Chiếc lá cuối cùng
- Phân tích truyện ngắn chiếc lá cuối cùng
- Cảm nhận của em về truyện Chiếc lá cuối cùng của O Hen-ri
- Phân tích hai nhân vật Xiu và Giôn-xi trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của O Hen-ri
- Phân tích Ý nghĩa hình ảnh chiếc lá cuối cùng trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của O Hen-ri
- Dàn ý Phân tích nhân vật Bơ-men trong truyện Chiếc lá cuối cùng
- Phân tích nhân vật Bơ-men trong truyện Chiếc lá cuối cùng
- Dàn ý Tại sao chiếc lá cuối cùng là một kiệt tác ?
- Tại sao chiếc lá cuối cùng là một kiệt tác ?
Hai cây phong
Viết bài tập làm văn số 2
Kể lại kỉ niệm đáng nhớ với người thân năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
Kể về một kỉ niệm đáng nhớ đối với một con vật nuôi mà em yêu thích năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
- Kể về một việc em đã làm khiến bố mẹ vui lòng
- Kể về một việc tốt em đã làm để giúp đỡ người khác
- Kể về một người truyền cảm hứng sống cho em
- Kể lại câu chuyện Lão Hạc bán chó
- Bài viết biết ơn về Thầy Cô giáo
Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000
Ôn dịch, thuốc lá
- Cảm nghĩ về bài Ôn dịch, thuốc lá của Nguyễn Khắc Viện
- Phân tích bài Ôn dịch, thuốc lá của Nguyễn Khắc Viện
Bài toán dân số
- Phân tích bài Bài toán dân số của Thái An
- Vấn đề dân số được thể hiện như thế nào qua Bài toán dân số của Thái An
Viết bài tập làm văn số 3
- Dàn ý Thuyết minh về chiếc nón lá
- Thuyết minh về chiếc nón lá
- Dàn ý Thuyết minh về kính đeo mắt
- Thuyết minh về kính đeo mắt
- Dàn ý Thuyết minh về cây bút
- Dàn ý Giới thiệu về chiếc áo dài
- Thuyết minh về đôi dép lốp trong kháng chiến
- Giới thiệu về đôi dép lốp trong kháng chiến
- Thuyết minh về đồ dùng học tập, sinh hoạt
- Dàn ý Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh
- Thuyết minh một danh lam thắng cảnh giàu tiềm năng
- Dàn ý Thuyết minh về một giống vật nuôi
- Thuyết minh về một giống vật nuôi
- Dàn ý Thuyết minh về cây tre
Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác
- Phân tích bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác của Phan Bội Châu
- Phân tích hình ảnh nhà cách mạng yêu nước qua bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác của Phan Bội Châu
- Phân tích tấm lòng yêu nước thiết tha của các tác giả qua các tác phẩm từ đầu thế kỉ 20 đến trước Cách mạng tháng 8
Đập đá ở Côn Lôn
- Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh
- Cảm nhận về bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh
- Phân tích hình tượng người chiến sĩ cách mạng trong bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh
Muốn làm thằng Cuội
- Phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà
- Cảm nhận về bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà
- Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà
- Cái ngông của Tản Đà qua bài thơ Muốn làm thằng Cuội
Hai chữ nước nhà
- Phân tích bài thơ Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải
- Cảm nhận bài thơ Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải
Nhớ rừng
- Phân tích hai khổ thơ đầu bài Nhớ rừng của Thế Lữ năm 2023 (3 mẫu)
- Phân tích bức tranh tứ bình trong bài Nhớ rừng của Thế Lữ năm 2023 (5 mẫu)
- Khát vọng tự do và lòng yêu nước trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ năm 2023 (5 mẫu)
- Cảm nhận về khổ thơ thứ 3 bài Nhớ rừng của Thế Lữ năm 2023 (5 mẫu)
- Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ năm 2023 (5 mẫu)
- Cảm nhận bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ năm 2023 (5 mẫu)
- Dàn ý Phân tích tâm trạng của con hổ trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ (3 mẫu)
- Phân tích tâm trạng của con hổ trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ (dàn ý + 5 mẫu)
Ông đồ
- Cảm nhận về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên năm 2023 (5 mẫu)
- Phân tích khổ thơ đầu trong bài thơ Ông đồ của tác giả Vũ Đình Liên năm 2023 (3 mẫu)
- Dàn ý Phân tích hình ảnh ông đồ trong bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên (2 mẫu)
- Phân tích hình ảnh ông đồ trong bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên (dàn ý + 4 mẫu)
Quê hương
- Cảm nhận về bài thơ Quê hương của Tế Hanh năm 2023 (5 mẫu)
- Phân tích tình yêu quê hương đất nước qua bài Quê hương của Tế Hanh năm 2023 (5 mẫu)
Khi con tu hú
- Cảm nhận bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu năm 2023 (5 mẫu)
- Bài thơ Khi con tu hú của Tố hữu thể hiện sâu sắc lòng yêu cuộc sống và niềm khao khát tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng trong cảnh tù đày năm 2023 (5 mẫu)
- Phân tích đặc sắc nghệ thuật của bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu năm 2023 (3 mẫu)
- Cảm nhận 4 câu thơ cuối bài Khi con tu hú của Tố Hữu năm 2023 (3 mẫu)
- Cảm nhận vẻ đẹp bức tranh mùa hè mà 6 câu đầu trong bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu gợi nên năm 2023 (5 mẫu)
- Phân tích Bức tranh thiên nhiên trong Khi con tu hú của Tố Hữu (dàn ý + 4 mẫu)
Tức cảnh Pác Bó
- Cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh năm 2023 (5 mẫu)
- Phân tích Hình ảnh Bác Hồ qua bài thơ Tức cảnh Pác Bó (dàn ý + 4 mẫu)
Ngắm trăng (Vọng nguyệt)
- Cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh năm 2023 (5 mẫu)
- Vẻ đẹp tâm hồn của Bác qua bài thơ Ngắm trăng năm 2023 (5 mẫu)
Đi đường (Tẩu lộ)
Viết bài tập làm văn số 5
- Thuyết minh về một giống vật nuôi năm 2023 (5 mẫu)
- Thuyết minh về một loài hoa hay loài cây mà em yêu thích năm 2023 (5 mẫu)
- Thuyết minh về một văn bản/ một thể loại văn học đơn giản năm 2023 (5 mẫu)
- Giới thiệu một danh lam thắng cảnh ở quê em năm 2023 (5 mẫu)
- Thuyết minh về đồ dùng học tập, sinh hoạt (dàn ý + 8 mẫu)
- Dàn ý Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh (7 mẫu)
- Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh hay nhất (dàn ý + 12 mẫu)
- Thuyết minh về Văn miếu Quốc Tử Giám (dàn ý + 5 mẫu)
- Thuyết minh một danh lam thắng cảnh giàu tiềm năng (dàn ý + 5 mẫu)
- Dàn ý Thuyết minh về cây tre (4 mẫu)
- Thuyết minh về cây tre Việt Nam (dàn ý + 10 mẫu)
- Thuyết minh về một loài cây (dàn ý + 7 mẫu)
- Thuyết minh về loài cây ăn quả mà em biết (dàn ý + 6 mẫu)
- 3 bài văn mẫu Thuyết minh, Giới thiệu về một loài hoa (dàn ý + 7 mẫu)
- Dàn ý Thuyết minh về kính đeo mắt (3 mẫu)
- 3 bài văn mẫu Thuyết minh về kính đeo mắt hay nhất (dàn ý + 10 mẫu)
Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu)
- Phân tích Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn năm 2023 (5 mẫu)
- Chứng minh Chiếu dời đô có sức thuyết phục lớn bởi có sự kết hợp giữa lí và tình năm 2023 (3 mẫu)
Hịch tướng sĩ
Nước Đại Việt ta
- Cảm nhận đoạn trích Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi năm 2023 (5 mẫu)
- Dàn ý Chứng minh Nước Đại Việt ta là một bản tuyên ngôn bất hủ
- Chứng minh đoạn trích Nước Đại Việt ta là một bản tuyên ngôn bất hủ (2 mẫu)
- Làm sáng tỏ nhận định: Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi là áng văn tràn đầy lòng tự hào dân tộc
Bàn luận về phép học
- Phân tích bài Bàn luận về phép học của Nguyễn Thiếp năm 2023 (5 mẫu)
- Cảm nhận văn bản Bàn luận về phép học của Nguyễn Thiếp năm 2023 (3 mẫu)
Viết bài tập làm văn số 6
Suy nghĩ về mối quan hệ giữa học và hành qua bài Bàn luận về phép học năm 2023 (dàn ý - 5 mẫu)
- Dựa vào các văn bản Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ, hãy nêu suy nghĩ của em về vai trò của những người lãnh đạo anh minh như Lí Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn đối với vận mệnh đất nước năm 2023 (5 mẫu)
- Câu nói của M.Go-rơ-ki: "Hãy yêu sách, nó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thức mới là con đường sống" gợi cho em những suy nghĩ gì năm 2023 (5 mẫu)
- Tình yêu quê hương là một tình cảm thiêng liêng đối với mỗi người
- Viết bài văn để thuyết phục các bạn chăm học hơn
- Nghị luận về vấn đề trang phục học đường
Thuế máu
- Cảm nghĩ về bài Thuế máu của Hồ Chí Minh năm 2023 (5 mẫu)
- Phân tích văn bản Thuế máu của Hồ Chí Minh năm 2023 (5 mẫu)
- Phân tích tội ác của thực dân Pháp qua bài Thuế máu
Đi bộ ngao du
Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục
Viết bài tập làm văn số 7
- Nghị luận về chủ đề Hãy nói không với các tệ nạn năm 2023 (5 mẫu)
- Văn học và tình thương năm 2023 (5 mẫu)
- 2 bài văn mẫu Trò chơi điện tử là món tiêu khiển hấp dẫn. Nhiều bạn vì mải chơi mà sao nhãng học tập
- Dàn ý Giải thích câu tục ngữ Lá lành đùm lá rách
- Giải thích câu tục ngữ Lá lành đùm lá rách
- Dàn ý Chứng minh câu tục ngữ Một cây làm chẳng nên non - Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
- Chứng minh câu tục ngữ Một cây làm chẳng nên non - Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
- Dàn ý Ý nghĩa câu ca dao Một cây làm chẳng nên non - Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
- Ý nghĩa câu ca dao Một cây làm chẳng nên non - Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
- Dàn ý Giải thích và chứng minh câu ca dao Nhiễu điều phủ lấy giá gương
- 2 bài văn mẫu Giải thích và Chứng minh câu ca dao Nhiễu điều phủ lấy giá gương
- Dàn ý Giải thích câu nói Có tài mà không có đức là người vô dụng
- Giải thích câu nói Có tài mà không có đức là người vô dụng
- Dàn ý Giải thích câu ca dao Công cha như núi Thái Sơn
- Giải thích câu ca dao Công cha như núi Thái Sơn
- Dàn ý Giải thích câu ca dao Anh em như thể tay chân
- Giải thích câu ca dao Anh em như thể tay chân
- Dàn ý Giải thích câu tục ngữ Thương người như thể thương thân
- Giải thích câu Thương người như thể thương thân
- Dàn ý Ý nghĩa bài ca dao Cày đồng đang buổi ban trưa
- Giải thích Ý nghĩa bài ca dao Cày đồng đang buổi ban trưa
- Dàn ý Giải thích bài ca dao Trong đầm gì đẹp bằng sen
- Giải thích câu ca dao Trong đầm gì đẹp bằng sen
- Dàn ý Nhà văn Nguyễn Bá Học có nói: Đường đi khó, không vì ngăn sông cách núi
- Nhà văn Nguyễn Bá Học nói: Đường đi khó, không vì ngăn sông cách núi
- Dàn ý Bài viết về biết ơn thầy cô giáo
- Bài viết về biết ơn thầy cô giáo
- Vai trò của đọc sách với đời sống của con người
- Vai trò của cây cối trong việc bảo vệ môi trường
- Vai trò của rừng đối với đời sống con người
- Vai trò của sách đối với đời sống nhân loại
Văn thuyết minh
- Thuyết minh về cây bút
- Thuyết minh về đôi dép lốp
- Thuyết minh về chiếc nón lá
- Thuyết minh về áo dài
- Thuyết minh về cây lúa (3 mẫu)
- Thuyết minh về Lăng Chủ tịch (Lăng Bác)
- Thuyết minh về một ngôi chùa cổ nổi tiếng ở Việt Nam
- Thuyết minh về một địa điểm du lịch nổi tiếng
- Thuyết minh về món phở
- Thuyết minh về món bánh mang bản sắc văn hóa dân tộc
- Thuyết minh về tranh Đông Hồ
- Thuyết minh về chiếc đồng hồ
- Thuyết minh về món đồ chơi tuổi thơ mà em yêu thích
- Thuyết minh về lễ hội
- Thuyết minh về ca dao Việt Nam
- Thuyết minh về loài hoa em yêu thích
- Thuyết minh về đôi dép lốp trong kháng chiến
- Thuyết minh về thể thơ lục bát
- Thuyết minh về loài hoa là biểu tượng đất nước
- Thuyết minh một nhạc cụ dân tộc hoặc điệu ca dân tộc
- Thuyết minh về lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương
- Thuyết minh về Hoa Sen
- Thuyết minh về nhạc cụ dân tộc
- Thuyết minh về một địa điểm du lịch
- Thuyết minh về một di sản văn hóa thế giới
Văn nghị luận
- Làm sáng tỏ ý thơ "Bàn tay ta làm nên tất cả, Có sức ..."
- "Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả ..."
- Ông cha ta thường nói "Có học phải có hạnh"
- Ca dao có câu "Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài ..."
- "Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang không hay không, dân tộc ..."
- Chứng minh thiên nhiên là người bạn tốt của con người
- Giải thích câu tục ngữ "Ta về ta tắm ao ta, ..."
- Giải thích bài ca dao "Rủ nhau xuống bể mò cua ..."
- Cha ông ta có câu Học đi đôi với hành
- Dân gian có câu Một điều nhịn, chín điều lành
- Giải thích câu tục ngữ Học đi đôi với hành
- Viết đoạn văn nêu suy nghĩ của em về việc sử dụng lãng phí nước sạch
- Viết đoạn văn nêu ý kiến về việc không tuân thủ việc mặc đồng phục khi đến trường
- Ý kiến của em về câu nói Sách mở rộng ra trước mắt tôi những chân trời mới
- Bàn về cái đẹp trong thiên nhiên và trong xã hội
- Giải thích câu tục ngữ "Chị ngã em nâng"
- Ý nghĩa bài ca dao "Trâu ơi ta bảo trâu này ..."
- Giải thích ý kiến "Sự làm việc tránh cho ta ba cái hại lớn ..."
- Giải thích và chứng minh câu nói "Hai chữ "lần nữa" đủ hại cả đời"
- Nỗi khổ đau của kiếp lầm than qua các tác phẩm văn học đầu thế kỉ XX
- Giải thích và chứng minh "Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ"
- Giải thích và chứng minh câu tục ngữ "Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh"
- Tục ngữ có câu Im lặng là vàng. Nhưng nhà thơ Tố hữu lại viết
- Chứng minh văn học dân tộc luôn ca ngợi những ai biết thương người như thể thương thân
- Nghị luận về trò chơi điện tử
- Suy nghĩ của em về vấn đề: tranh giành và nhường nhịn
- Nêu cảm nhận của em về câu nói của Tố Hữu: Ôi sống đẹp là gì hỡi bạn
- Suy nghĩ của em về vai trò của người lãnh đạo anh minh
Văn biểu cảm
- Kể lại những kỉ niệm ngày đầu tiên đi học
- Người bạn ấy sống mãi trong lòng tôi
- Tôi thấy mình đã khôn lớn
- Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về quê hương, đất nước
- Viết đoạn văn nêu suy nghĩ của em về tình yêu quê hương, đất nước
- Trình bày suy nghĩ về việc chấp hành luật đội mũ bảo hiểm trong đời sống
- Viết đoạn văn giải thích tác dụng của mũ bảo hiểm
- Nêu ý kiến của em về hiện tượng phá hoại cây xanh nơi công cộng
- Tự học mang lại nhiều lợi ích to lớn
- Chúng ta cần biết quan tâm và chia sẻ với những người nghèo
- Kể về một kỉ niệm đáng nhớ với con vật nuôi mà em yêu thích
- Kể về một việc em đã làm khiến bố mẹ em vui lòng
- Kể lại một vài kỉ niệm vui buồn của tuổi thơ
- Kể lại câu chuyện Cô bé bán diêm của An-đéc-xen
- Người ấy sống mãi trong lòng tôi: Người Bà
- Kể lại một chuyến về thăm quê nội, quê ngoại
- Kể về một lần em mắc khuyết điểm khiến thầy, cô buồn lòng
- Kể một câu chuyện thể hiện công ơn của cha mẹ đối với con
- Suy nghĩ của em về tình cảm yêu nước thương dân trong Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ
- Tuổi trẻ học đường cần tránh xa các tệ nạn xã hội
- Thuốc lá có thể có hại, nhưng cũng có thể có một lợi nào đó
- Môi trường sống có vai trò rất quan trọng đối với sự sống con người
- Tại sao con người không thể sống thiếu tình yêu thương
- Sách mở rộng ra trước mắt tôi những chân trời mới
- Những chuyến tham quan, du lịch đem đến cho ta nhiều niềm vui
- Viết đoạn văn nêu tác hại của thuốc lá
- Kể lại Bài học đường đời đầu tiên của em
- Kể lại một chuyện vui xảy ra trong lớp em
- Hãy kể về một việc tốt mà em đã làm
- Kể lại chuyến tham quan của em cùng các bạn trong lớp
- Kể lại chuyện em (hoặc bạn em) từng mắc lỗi
- Kể về một việc làm khiến em ân hận
- Kể lại một việc em đã làm khiến bố mẹ đau lòng
Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ năm 2023
A/ Dàn ý chi tiết
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả tác phẩm: Thế Lữ là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới giai đoạn đầu 1932 - 1945. Bài thơ “Nhớ rừng” là một trong những tác phẩm nổi tiếng, làm nên thành công cho hồn thơ dồi dào, đầy lãng mạn - Thế Lữ.
- Khái quát nội dung tác phẩm: Bài thơ thông qua tâm trạng uất hận trước hoàn cảnh thực tại và nỗi nhớ thời quá khứ vàng son của con hổ để nói lên tâm trạng của chính những người dân đang chịu cảnh mất nước lúc bấy giờ.
II. Thân bài:
* Luận điểm 1: Tâm trạng uất hận của con hổ khi bị giam cầm
- Sử dụng một loạt các từ ngữ gợi cảm thể hiện tâm trạng chán nản, uất ức: “căm hờn”, “nằm dài”, “chịu ngang hàng”, “bị làm trò”, “bị nhục nhằn”. Sự đau đớn, nhục nhã, bất bình của con hổ như bắt đầu trỗi dậy mãnh liệt khi nhìn thực tại tầm thường trước mắt.
* Luận điểm 2: Quá khứ vàng son trong nỗi nhớ của con hổ
- Nằm trong cũi sắt, con hổ nhớ về chốn sơn lâm – nơi nó từng ngự trị, đó là nơi có hàng ngàn cây đại thụ, có tiếng gió rít qua từng kẽ lá, tiếng của rừng già ngàn năm. Tất cả gợi ra một khu rừng hoang dã, hùng vĩ như vô cùng bí ẩn.
- Hình ảnh con hổ giữa chốn rừng xanh bạt ngàn được miêu tả qua một loạt từ ngữ miêu tả, gợi hình: “dõng dạc”, “đường hoàng”, “lượn tấm thân”, “vờn bóng”, “mắt…quắc”…, thể hiện sự uy nghi, ngang tàng, lẫm liệt của loài chúa tể rừng xanh.
- Hình ảnh con hổ khi còn làm vua chốn rừng xanh được miêu tả qua nỗi nhớ về quá khứ: Một loạt những hình ảnh sóng đôi giữa rừng già và loài chúa tể sơn lâm: “Đêm vàng bên bờ suối” – “ ta say mồi…uống ánh trăng”, “ngày mưa” – “ ta lặng ngắm giang sơn”, “bình minh…nắng gội” – “giấc ngủ ta tưng bừng”, “chiều…sau rừng” – “ta đợi chết…”.
- Việc sử dụng một loạt câu hỏi tu từ, đặc biệt là câu cuối đoạn đã thể hiện tâm trạng nuối tiếc, nhớ nhung một quá khứ vàng son, một thời kì oanh liệt, tự do, ngạo nghễ làm chủ thiên nhiên núi rừng.
* Luận điểm 3: Nỗi uất hận khi nghĩ về thực tại tầm thường, giả dối
- Quay trở về với hiện thực, con hổ với nỗi “uất hận ngàn thâu” đã vạch trần toàn bộ sự giả dối, tầm thường, lố bịch của cuộc sống trước mắt: Ấy là những “cảnh sửa sang tầm thường, giả dối”, cái bắt chước đầy lố bích của thiên nhiên giả tạo, cố cho ra cái “vẻ hoang vu” nơi rừng thiêng sâu thẳm.
* Luận điểm 4: Khao khát tự do sục sôi trong lòng con hổ
- Giọng điệu bi tráng, gào thét với núi rừng (“hỡi…”), lời nói bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ, sự nuối tiếc về quá khứ và khao khát tự do, dù trong giấc mộng, con hổ cũng muốn được quay về nơi rừng già linh thiêng.
⇒ Mượn lời của con hổ, tác giả đã thay cho tiếng lòng của con dân Việt Nam trong thời kì mất nước, ấy là tiếng than nuối tiếc cho một thời vàng son của dân tộc, là tiếng khao khát tự do cháy bỏng, sục sôi trong từng người dân yêu nước.
* Luận điểm 5: Nghệ thuật
- Thể thơ tự do hiện đại, phóng khoáng, dễ dàng bộc lộ cảm xúc
- Ngôn ngữ độc đáo, có tính gợi hình, gợi cảm cao
- Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng thành công: nhân hóa, so sánh, điệp cấu trúc, câu hỏi tu từ, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác…
- Giọng điệu, nhịp thơ linh hoạt, khi thì buồn thảm, khi hào hùng, lẫm liệt, theo trình tự logic hiện thực – quá khứ - hiện thực – quá khứ…
III. Kết bài:
- Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật: “Nhớ rừng” không chỉ thành công ở nghệ thuật tinh tế, mà còn có giá trị lớn về nội dung, đại diện cho tiếng lòng của mọi người dân Việt Nam đang sục sôi trước hoàn cảnh đất nước.
- Liên hệ và đánh giá tác phẩm: Bài thơ góp phần to lớn vào sự thành công của phong trào Thơ mới.
B/ Sơ đồ tư duy
C/ Bài văn mẫu
Phân tích bài thơ Nhớ rừng – mẫu 1
Bài thơ mượn lời một con hổ ở vườn Bách thú. Đề tài đầy kịch tính. Cảnh ngộ là một thân tù hèn mọn, bất lực, hồn vía là một chúa sơn lâm. Ông chúa này đã hết thời đập phá hung dữ đòi tự do. Ông đã thấm thía sự bất lực và ý thức được tình thế của mình, cam chịu cảnh gặm nhấm một khối căm hờn, nằm dài trông ngày tháng qua, mặc cho thân thể bị tụt xuống ngang cấp với các loài hèn kém. Nhìn bề ngoài, người ta có thể nói con hổ này đã thuần hóa, chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi, với cặp báo chuồng bên vô tư lự. Nhưng đấy chỉ là bề ngoài thôi, còn thế giới bên trong của mãnh thú, tội nghiệp thay, vẫn ngùn ngụt lửa. Bút pháp lãng mạn của Thế Lữ có dịp tung hoành, có dịp chứng tỏ sức diễn đạt phong phú của Thơ mới khi dựng lại khung cảnh kì vĩ trong mộng tưởng của chúa sơn lâm.
Mối bi kịch thân ở nơi tù, hồn ở giang sơn cũ đã tạo nên chất men ngưỡng mộ đối với hoài niệm. Qua tâm linh của loài hổ, rừng núi hiện lên trong vẻ kì vĩ đắm say. Kì vĩ vì thâm nghiêm bóng cây già; kì vĩ vì dữ dội oai hùng với từ gào, hét, thét, dữ dội; kì vĩ vì hoang vu bí ẩn: hang tối, thảo hoa không tên tuổi, riêng phần bí mật.
Trong cảnh núi rừng kì vĩ đó hiện lên hình ảnh oai linh của một chúa sơn lâm. Trọng tâm của bức tranh rừng này là con hổ. Nhưng trước khi để hổ hiện ra, Thế Lữ đã dựng cảnh để gợi không khí oai hùng, kinh sợ. Vèo đúng lúc tiếng gào thét của thiên nhiên đang ở đỉnh cao dữ dội, chúa sơn lâm xuất hiện. Đầu tiên để thấy bàn chân, một bước chân dõng dạc, đường hoàng. Câu thơ như đoạn phim cận cảnh quay chi tiết, thu hút sự chú ý của khán giả. Sau bàn chân là tấm thân, xuất hiện rất từ tốn nên càng oai hùng, to lớn. Chiều dài của tấm lưng trải ra theo câu thơ, một sự mềm mại tích chứa sức mạnh:
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Cách miêu tả từng động tác, lại tả những động tác có chọn lựa của bàn chân, tấm thân và ánh mắt đã thể hiện được sức chế ngự của mãnh thú trước phong cảnh. Mấy câu thơ sau đã hoàn tất tốt bức chân dung của chúa sơn lâm. Cái oai của chúa rừng còn chế ngự cả cảnh vật khi chúa đã đi qua khiến cho mọi vật đều im hơi. Câu nói kiêu hãnh của loài hổ không có gì quá đáng:
"Ta biết ta chúa tể của muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi".
Chỉ một đoạn thơ này đã đủ nói cái quá khứ oai hùng, giang sơn nhất khoảnh của chúa rừng. Thế Lữ còn dư sức bút, một đoạn nữa cũng của đích ấy, những chi tiết lấy từ sinh hoạt của các ác thú. Óc tưởng tượng của nhà thơ tiên phong trong phong trào Thơ mới thật phong phú, từ chi tiết thực của đời thú, ông đã dựng được chân dung tâm hồn của vị chúa tể. Có bốn cảnh: đêm trăng - ngày mưa - sáng xanh - chiều đỏ. Bức tứ bình này (Thế Lữ cũng là họa sĩ đã từng học cao đẳng mỹ thuật) ít chi tiết, nhưng nét đậm rõ, màu lên từng mảnh lớn, trong cảnh có cả âm thanh khi tưng bừng tươi sáng, khi câm lặng bí ẩn. Bút pháp tả cảnh ở đây hiếm thấy trong thơ Việt Nam. Vẫn là tả tập tính của thú nhưng sắc gợi của câu thơ rộng xa, giúp người đọc thấy cái hồn của cảnh và "tâm trạng" con thú.
"Nào đâu những đêm vàng bên suố
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?"
Sự im lặng thiêng liêng có chút ghê rợn nhưng thật kì ảo quyến rũ: bên suối trăng một mãnh thú uống nước, rình mồi.
Tác giả nâng uy quyền của chúa rừng bằng cách để hắn đối diện với thiên nhiên, tạo hóa trong cả bốn bức tranh đó - đối diện với trăng, với mưa, với bình minh, với hoàng hôn. Và ở cả bốn khung cảnh, con hổ đều ở thế chế ngự - chú ý các động từ tả hoạt động của hổ trong bốn cảnh "Say mồi, đứng uống, lặng ngắm giang sơn, đợi mặt trời chết, để chiếm lấy. . .".
Đẹp nhất, dữ dội, bi tráng nhất là cảnh hoàng hôn. Bức tranh rực rỡ trong gam đỏ: đỏ của máu lênh láng, đỏ của mặt trời gay gắt. Tác giả dùng chữ mảnh đề chỉ mặt trời, tưởng như mặt trời cũng bé đi trong mắt nhìn loài hổ. Không chết chóc bao trùm, gợi lên do máu lênh láng, do giây phút hấp hối gay gắt của mặt trời. Chỉ ít phút nữa vũ trụ sẽ chết lặng, ngự trị trong bóng tối, chỉ còn oai linh của hổ. Đấy là điểm cao trào nhất của quyền lực, gần như sự bất tử. trên đỉnh cao huy hoàng của hồi tưởng, hổ đã sực tỉnh cái thân tù:
"Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu!"
Lời than có sức lay động và ngân vang do sự tương phản ấy. Hùm thiêng khi đã sa cơ... Bản thân sự hồi tưởng này đã cụ thể hóa cảnh ngộ của câu thơ: Gặm một mối căm hờn trong cũi sắt. Một lần hồi tưởng là một lần ý thức thêm sự bất lực, là một lần gặm nhấm thất bại.
Nhiều người đã bình luận có lí về ý nghĩa xã hội của bài thơ: Hổ trong cũi sắt nhớ tự do là biểu tượng cho tình cảm của người dân Việt mất nước. Bài thơ có ý nghĩa thức tỉnh lòng yêu nước, ý chí tự tôn dân tộc một cách kín đáo. Tất nhiên, nếu chỉ thấy ý nghĩa đó, chúng ta chưa thấy hết bài thơ và cũng rất nên đề phòng trường hợp khi đi vào ý nghĩa xã hội, vốn có của bài thơ. Đoạn cuối bài thơ không xuất sắc bằng các đoạn trên, nhưng lại bộc lộ rõ khuynh hướng tư tưởng của bài thơ qua tâm sự chúa sơn lâm:
"Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi
.......
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u"
Niềm uất hận đương nhiên là vì tù túng, nhưng cái uất nhất do sự tù túng pây nên là phải chấp nhận cái tầm thường. Hổ nhớ rừng không chỉ là nhớ tự do mà còn là, theo tôi lại là chủ yếu nếu căn cứ vào văn bản của bài thơ, nhớ cái cao cả, cái chân thực, cái tự nhiên. Tới đây, chúng ta gặp thuộc tính của chủ nghĩa lãng mạn: vươn tới cái phi thường, cao hơn cuộc sống hàng ngày buồn tẻ, đơn điệu, bé nhỏ trong tầm tay trần tục của con người: hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng. Xuân Diệu thuở ấy từng mơ ước:
"Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm"
Đây không phải chỗ để luận cái đúng sai của nhân sinh quan này, chỉ xin nói tới nó như một đặc điểm của chủ nghĩa lãng mạn. Thế Lữ cũng thường say đắm những cảnh siêu phàm, những tương phản rất xa nhau của thiên nhiên:
"Cảnh vĩ đại, sóng nghiêng trời, thác ngàn đổ
Nét mong manh, thấp thoáng cánh hoa bay".
Thơ Thế Lữ, do vậy, nhiều lần đắm vào cảnh tiên. Niềm khát khao của con :hổ nhớ rừng là khát khao trở về với cái kì vĩ, siêu phàm, không chung sống được với cái tầm thường, thấp kém, giả tạo. Đó cũng là vẻ đẹp của nhân cách, tuy rằng mang nỗi khát khao ấy trong mình là đã sẵn niềm thất vọng, vì cái phi thường của các nhà lãng mạn cũng là cái phi thực. Vả lại, siêu phàm cũng dễ đồng nghĩa với cô đơn. Hãy đọc Xuân Diệu:
"Ta là một, là Riêng, là Thứ Nhất
Không có chi bè bạn ngồi cùng ta
....
Ta bỏ đời, mà đời cũng bỏ ta
Giữa vắng ngắt, giữa lạnh lùng thế tuyệt!
(Hy Mã Lạp Sơn)
Nỗi lòng của Hy Mã Lạp Sơn trong thơ Xuân Diệu cũng là nỗi lòng con hổ trong cũi sắt của Thế Lữ, nó thuộc về bản chất của chủ nghĩa lãng mạn. Quá nhấn mạnh, đến ý nghĩa xã hội, e làm hẹp đi chất nhân bản của bài thơ và cũng làm mờ đi quy luật thẩm mỹ của chủ nghĩa lãng mạn. Còn một lí do nhỏ nữa: Tự do của con hổ là tự do của một ông chúa,Ta biết ta chúa tể muôn loài, khát khao tự do của hổ, qua một loạt hình tượng của bài, là khát khao ngự trị, khao khát tước đoạt tự do của kẻ khác. Cho nên coi hổ trong cũi là thân phận của dân tộc ta e có chỗ khó giải thích khi nói tới tính thống nhất của hình tượng.
Phân tích bài thơ Nhớ rừng – mẫu 2
Một trong những cây bút xuất sắc có mặt ngay từ lúc ban đầu là Thế Lữ. Rất nhiều tác phẩm của ông đã góp phần to lớn cho sự phát triển của Thơ mới mà tiêu biểu nhất là tác phẩm Nhớ Rừng. Ở trong Nhớ Rừng, Thế Lữ đã thể hiện một tâm sự u uất, chán nản và khát vọng tự do cháy bỏng tha thiết qua lời mượn của con hổ trong vườn bách thú. Đó cũng là tâm sự chung của những người Việt Nam yêu nước trong hoàn cảnh mất nước.
Trong những ngày đầu mới ra đời, phong trào Thơ mới đã có những sự phát triển trong cả phong cách và nội dung. Trên các chặng đường phát triển, Thơ mới đã dần giải phóng khỏi tính quy phạm chặt chẽ và hệ thống ước lệ có tính "phi ngã" của thi ca cổ điển. Các nhà thơ đã khám phá thế giới bằng chính những giác quan, những cảm xúc rất thực của mình. Đó cũng là lúc xuất hiện cái tôi rõ nét trong thơ.
Ở đó là sự vươn lên của những cảm xúc mãnh liệt của con người vượt thoát khỏi thực tế khách quan. Chính vì vậy Thơ mới có khuynh hướng thoát ly thực tại, thể hiện tâm trạng bất hoà, bất lực trước thực trạng xã hội. Qua đó, Thơ mới cũng đã bộc lộ sự phản kháng gay gắt trước thực tại tầm thường giả dối, tù túng giam hãm ước mơ con người.
Cùng chung thái độ phản kháng ấy, Thế Lữ đã viết nên những dòng thơ đầy tâm trạng trong bài Nhớ Rừng. Mượn lời con hổ ở vườn bách thú để nói lên tâm trạng chính mình. Thế Lữ đã dựng lên một khung cảnh vừa rất thực vừa ẩn chứa những điều thầm kín sâu xa. Tất cả hình ảnh được nhắc đến trong bài đều là không gian xoay quanh cuộc sống của con hổ. Thực tế là con hổ đang bị giam hãm trong một cũi sắt và nó cảm nhận cuộc sống của mình chứa đựng những u uất ngao ngán trong cảnh giam hãm tù túng, những cảnh "tầm thường giả dối" ở vườn bách thú.
Chính vì thế, nó cảm thấy tiếc nhớ về quá khứ oanh liệt nơi núi rừng hùng vĩ. Đó là hai cảnh tượng hoàn toàn trái ngược nhau giữa thực tại và dĩ vãng. Hổ vốn là loài vật được xem là chúa tể của muôn loài, nhưng nay vì sa cơ mà phải chịu sống cảnh "nhục nhằn" trong cũi sắt. Không gian cuộc sống của vị chúa tể rừng xanh đã bị thu hẹp và từ nay bị biến thành một "trò lạ mắt", một "thứ đồ chơi" trong con mắt mọi người. Đối với nó, cuộc sống bây giờ đã trở nên vô vị nhạt nhẽo bởi đang phải sống nơi không tương xứng với tư cách của một vị chúa sơn lâm.
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua
Hổ đã cảm thấy bất lực bởi chẳng có cách nào thoát khỏi cuộc sống tù túng nên cũng đành ngao ngán nhìn thời gian trôi qua một cách vô ích. Nhưng cho dù phải ở trong hoàn cảnh nào thì kẻ thuộc "giống hùm thiêng" cũng luôn biết thân phận thực sự của mình là một vị chúa. Ông ba - mươi đã tỏ thái độ khinh mạn, coi thường trước những sự thiếu hiểu biết về sức mạnh thật sự của thiên nhiên của những con người "ngạo mạn ngẩn ngơ" chỉ biết "giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm".
Chán nản làm sao cảnh phải chịu sống ngang bầy cùng với "bọn gấu dở hơi", với "cặp báo chuồng bên vô tư lự"! Làm sao chịu được cảnh sống cam chịu chấp nhận số phận của những "người bạn" đồng cảnh ngộ. Đó là nỗi buồn, nỗi uất hận dồn nén để làm nên những hờn căm chất chứa trong lòng. Mệt mỏi, ngao ngán, bất lực! Trong hoàn cảnh đáng thương ấy, hổ đã nghĩ về cuộc sống quá khứ huy hoàng của mình:
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa
Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội...
Con hổ đã tiếc nhớ về thuở "hống hách" nơi "bóng cả cây già". Đó là nỗi nhớ đau đáu về nơi rừng thẳm. Nhớ rừng là tiếc nhớ tự do, nhớ về "thời oanh liệt", là nhớ về cái cao cả, chân thực, tự nhiên . Ở chốn nước non hùng vĩ ấy, con hổ đang ngự trị một sức mạnh giữa cuộc đời.
Bản lĩnh của một vị chúa sơn lâm luôn thể hiện xứng đáng quyền lực tối cao của mình với sức mạnh phi thường dữ dội. Những gì nó cần phải làm là khiến mọi vật đều phải nể sợ thuần phục. Ở đó, con hổ đã hiện lên với tư thế hiên ngang ngạo nghễ nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp oai phong lẫm liệt giữa núi rừng hùng vĩ:
Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc
Trong bóng tối mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật phải im hơi
Ta biết ta chúa tể của muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên không tuổi
Vẻ đẹp thật sự của hổ là đây! Từng bước chân, từng tấm thân ,từng ánh mắt đã khơi gợi lên một vẻ vừa dũng mãnh uy nghi vừa nhẹ nhàng uyển chuyển. Trong từng hành động, loài mãnh thú kia đã cho mọi vật thấy được sức mạnh tuyệt đỉnh khiến cho tất cả phải "im hơi". Cuộc sống tự do giữa chốn rừng thẳm mãi mãi là một điều rất cao quý. Ở đó hổ thực sự được hưởng một cuộc sống tươi đẹp mà thiên nhiên đã dành cho.
Đó là những thời khắc mãnh hổ đang "say mồi", đang ngắm sự đổi thay của "giang sơn", đang say giấc và đang muốn chiếm lấy riêng "phần bí mật" . Nó đã được thoải mái trong chính giang sơn của mình và khẳng định giá trị thật sự của cuộc sống với những khung cảnh lộng lẫy tươi đẹp nên thơ và cũng đầy sức quyến rũ. Nhưng bây giờ, tất cả cũng chỉ còn là những hoài niệm thuộc về quá khứ.
Hổ chẳng bao giờ còn được chứng kiến những cảnh "đêm vàng bên bờ suối", được nhìn thấy cảnh "những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn", được nghe thấy tiếng chim ca, được đắm mình trong cảnh "bình minh cây xanh nắng gội", được đợi chờ "chết mảnh mặt trời" của những chiều "lênh láng máu sau rừng".
Những cảnh ấy chỉ để lại trong con hổ những cảm giác tiếc nuối, ngậm ngùi trong sự xúc động mạnh mẽ, dồn dập của những câu hỏi đau đớn xót xa. Nỗi nhớ miên man tuôn trào với cảm xúc về quá khứ tươi đẹp đã khép lại giấc mơ huy hoàng trong một tiếng than thảm thiết:Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu.
Được sống lại với những ký ức tươi đẹp ở chốn núi rừng hùng vĩ, hổ chợt nhận ra sự tầm thường giả dối của những khung cảnh nơi nó đang sống. Trong cái nhìn ngạo nghễ của hổ là những cảnh "không đời nào thay đổi", những cảnh đơn điệu nhàm chán do con người sửa sang và cố đòi "bắt chước". Chúa tể rừng xanh đã tỏ thái độ khinh miệt, chán chường trước những cảnh vật nhỏ bé thấp kém của những sự giả dối nhân tạo.
Đó không phải là nơi xứng đáng để sống của một đấng thống lĩnh. Dẫu có cố gắng sửa sang thì đó cũng chỉ là những "dải nước đen giả suối chẳng thông dòng" len dưới những "mô gò thấp kém", là những "hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng" không có gì là "bí hiểm" "hoang vu". Những cảnh sống ngụy tạo ấy khiến cho hổ càng tiếc nhớ chốn "ngàn năm cao cả âm u".
Chán ghét cuộc sống thực tại, ôm niềm uất hận không nguôi, hổ khát khao một cuộc sống tự do mãnh liệt. Tất cả tâm tư tình cảm của hổ đều thuộc về nơi rừng thẳm ngàn năm âm u. Cũng qua đó, chúa sơn lâm đã gởi một lời nhắn tha thiết của mình về núi rừng. Dẫu là đang bị sa cơ nhưng hổ đã không giấu được niềm tự hào khi nói đến chốn "nước non hùng vĩ".
Giang sơn ấy là nơi hổ đã có những ngày tháng tươi đẹp, thoả chí vùng vẫy trong không gian riêng biệt thênh thang. Cho dù bây giờ sẽ chẳng bao giờ được sống lại ở những nơi xưa ấy nhưng hổ vẫn không bao giờ thôi nghĩ về "giấc mộng ngàn to lớn". Vị chúa mất ngôi đã khẩn cầu để được mãi sống trong những ký ức, những hoài niệm của những vẻ đẹp một đi không trở lại:
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi
Nỗi lòng của hổ là tâm sự của chàng thanh niên Thế Lữ mơ về cuộc sống tươi đẹp đã qua trong quá khứ. Đó cũng là tinh thần chung của hầu hết các bài thơ của Thế Lữ cũng như trong phong trào Thơ mới, mang theo khát khao của con người muốn được sống chính là mình.
Nhớ rừng không thể thoát ra khỏi nỗi buồn, "tâm bệnh của thời đại" bấy giờ. Nhưng bài thơ đặc sắc chính bởi vì tạo nên điểm gặp gỡ giữa sự u uất của người dân mất nước và tâm trạng bất hoà bất lực trước thực tại của thế hệ thanh niên trí thức tiểu tư sản. Qua đó khơi lên niềm khát khao tự do chính đáng.hòa
Giàu cảm hứng lãng mạn và cảm xúc mãnh liệt, Nhớ rừng đã lan tỏa một hồn thơ hối thúc và nhiều hình ảnh thơ đầy ấn tượng miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng. Thành công của Thế Lữ là đã thể hiện một trí tưởng tượng phong phú khi mượn hình ảnh con hổ trong vườn bách thú để nói hộ cho những tâm sự kín đáo sâu sắc của mình. Qua đó diễn tả nỗi chán ghét cảnh sống tù túng, đồng thời khơi lên tình cảm yêu nước của người dân thuở ấy.
....................................
....................................
....................................
Phân tích bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên năm 2023
A/ Dàn ý chi tiết
I. Mở bài:
- Giới thiệu bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên
- Trước kia trên bàn thờ tổ tiên, bên cạnh cặp bánh chưng, mâm ngũ quả là đôi câu đối tết. Chính vì vậy mà những ông đồ già trên vỉa hè phố xá rất đông khách thuê viết chữ và hình ảnh đầu đội khăn xếp mặc áo the đã khắc sâu vào tâm trí của người dân Việt Nam, nhà thơ Vũ Đình Liên là một trong số đó. Và theo thời gian, nét đẹp văn hóa kia dần mai một để chính tác giả phải tiếc nuối và sáng tác nên bài thơ “Ông đồ” để bày tỏ niềm thương cảm sâu sắc cho thân phận 1 lớp người và sự nuối tiếc 1 truyền thống đẹp đẽ của dân tộc.
II. Thân bài:
* Khái quát chung về bài thơ
- Thể thơ: năm chữ
- Nội dung: Qua hình ảnh ông đồ viết câu đối tết, tác giả muốn bày tỏ một lòng tiếc thương sâu sắc với một lớp người tài tình sinh bất phùng nay đã gần đất xa trời và sự nuối tiếc 1 truyền thống đẹp đẽ của dân tộc.
- Bố cục: 3 phần
* Luận điểm 1: Hình ảnh ông đồ thời kì đắc ý
- Hình ảnh ông đồ xuất hiện trong thời gian “Tết đến xuân về”, khi “hoa đào nở”:
+ Ông đồ và hoa đào như một cặp hình ảnh báo hiệu mùa xuân đến, năm mới bắt đầu.
+ Cặp từ “mỗi năm…lại” như thể hiện sự xuất hiện của ông đồ vào mùa xuân như một việc quen thuộc, một điều đã trở thành thói quen, thường lệ của chính ông đồ và những người xung quanh.
+ Hình ảnh ông đồ với mực tàu giấy đỏ giữa chốn phố sá nhộn nhịp đã trở thành hình ảnh thân thuộc, là một phần không thể thiếu của ngày Tết truyền thống, in sâu vào tiềm thức của người dân Việt Nam.
- Ông đồ thời này là trung tâm của mọi sự chú ý bởi những nét “phượng múa rồng bay”, người người đều “tấm tắc ngợi khen tài”.
⇒ Hình ảnh ông đồ tượng trưng cho một nét truyền thống văn hóa lâu đời của Việt Nam. Cả người thuê viết và người cho chữ đều đã và đang giữ gìn, phát huy nét truyền thống thanh cao, tao nhã và đầy văn minh ấy.
* Luận điểm 2: Hình ảnh ông đồ thời kì suy tàn
- Khung cảnh đìu hiu, vắng vẻ:
+ Cụm từ “mỗi năm mỗi vắng” thể hiện mức độ, không phải ông đồ và truyền thống cho chữ ngay lập tức bị lãng quên mà điều ấy diễn ra dần dần, theo thời gian mà ngày càng phai nhạt và biến mất.
+ Câu hỏi tu từ như một lời thốt lên đầy xót xa về sự thay đổi của xã hội, của lòng người.
- Hình ảnh ông đồ ngồi đơn độc, lạc lõng giữa đường phố tập nập:
+ Giấy – “không thắm”, “mực” – “đọng trong nghiên sầu”, “lá” – “rơi trên giấy”… Một loạt các hình ảnh được miêu tả đều mang một nỗi buồn chung: nỗi buồn bị lãng quên.
+ Hình ảnh lá vàng rơi và mưa bụi như làm tăng thêm sự ảm đạm, gợi cảm giác úa tàn, lãnh lẽo.
+ Tâm trạng ông đồ: buồn bã, chán nản, u uất, dường như tất cả đang nghẹn ứ lại, dồn nén và kết thành một khối sầu thảm muôn thuở.
+ Hình ảnh ông đồ lạc lõng giữa xã hội tượng trưng cho sự mai một của một nét văn hóa truyền thống, sâu hơn đó là sự xuống dốc của văn hóa xã hội, của lòng người đối với những giá trị truyền thống của dân tộc.
* Luận điểm 3: Mở rộng vấn đề
- Sự đối lập của hình ảnh ông đồ trong 2 khoảng thời gian khác nhau đã làm nổi bật lên tình cảnh đáng thương, đáng buồn của ông đồ. Ông bị xã hội bỏ rơi ngay trước mắt, vẫn nhưng “hoa tay”, “nét vẽ” ấy, vẫn ông đồ già ấy, vẫn khung cảnh ấy, nhưng lòng người đã đổi thay.
- Qua đó, ta thấy được tấm lòng đồng cảm, thương xót của tác giả đối với không chỉ ông đồ mà sâu hơn, đó là đối với cả một giá trị truyền thống của dân tộc. Đó chính là cảm hứng nhân đạo và niềm hoài cổ đặc trưng trong thơ của Vũ Đình Liên.
III. Kết bài:
- Khái quát lại hình ảnh ông đồ: Hình ảnh ông đồ là đại diện cho một lớp người đang tàn tạ cũng như những giá trị truyền thống đang bị lãng quên.
- Liên hệ và đánh giá: Qua đó thể hiện niềm cảm thương của tác giả trước sự tha hóa của xã hỗi và nỗi tiếc nhớ cảnh cũ người xưa.
B/ Sơ đồ tư duy
C/ Bài văn mẫu
Phân tích bài thơ Ông đồ - mẫu 1
Trước kia trên bàn thờ tổ tiên, bên cạnh cặp bánh chưng, mâm ngũ quả là đôi câu đối tết. Chính vì vậy mà những ông đồ già trên vỉa hè phố xá rất đông khách thuê viết chữ và hình ảnh đầu đội khăn xếp mặc áo the đã khắc sâu vào tâm trí của người dân Việt Nam, nhà thơ Vũ Đình Liên là một trong số đó. Để rồi tác giả viết lên bài thơ Ông đồ với 1 niềm thương cảm sâu sắc cho thân phận 1 lớp người tàn tạ và sự nuối tiếc 1 truyền thống đẹp đẽ của dân tộc.
Mở đầu bài thơ Ông đồ hình ảnh đã xuất hiện trong dòng suy tưởng, hoài niệm của tác giả:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Cấu trúc mỗi.. lại cho ta thấy ông đồ chính là 1 hình ảnh vô cùng quen thuộc với người dân Việt Nam vào mỗi dịp tết đến xuân về. Cùng với màu thắm của hoa đào, màu đỏ của giấy, màu đen nhánh của mực tàu và sự đông vui, náo nhiệt của ngày tết thì hình ảnh ông đồ đã trở nên không thể thiếu được trong bức tranh mùa xuân. Lời thơ từ tốn mà chứa bao yêu thương. Dẫu chỉ chiếm 1 góc nhỏ trên lề phố nhưng trong bức tranh thơ thì ông đồ lại chính là trung tâm, ông đã hòa hết mình vào cái không khí nhộn nhịp của ngày tết với những tài năng mình có:
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay
Từ bao nhiêu cho người đọc thấy được nghề cho chữ đã từng được mọi người rất yêu mến. Sự có mặt của ông đồ đã thu hút sự chú ý của mọi người, ông chính là trung tâm của sự kính nể và ngưỡng mộ. Hạnh phúc không chỉ là có nhiều người thuê viết mà còn được tấm tắc ngợi khen tài - Bởi ông có tài viết chữ rất đẹp. Ba phụ âm 't' cùng xuất hiện trong 1 câu như 1 tràng pháo tay giòn giã để ca ngợi cái tài năng của ông. Giữa vòng người đón đợi ấy ông hiện lên như 1 người nghệ sĩ đang say mê, sáng tạo, trổ hết tài năng tâm huyết của mình để rồi ông được người đời rất ngưỡng mộ. Với sự ngưỡng mộ đó thì Vũ Đình Liên còn thể hiện 1 lòng tự hào về truyền thống tốt đẹp của dân tộc là chơi câu đối chữ. Nhưng liệu có bao nhiêu người thuê viết hiểu được ý nghĩ sâu xa của từng câu, từng chữ để mà chia sẻ cái niềm vui, niềm hạnh phúc với người viết ra những câu chữ ấy?. Ở khổ thơ thứ 3 vẫn nổi bật hình ảnh ông đồ với mực tàu giấy đỏ, nhưng mọi thứ đã khác xưa. Không còn đâu bao nhiêu người thuê viết- Tấm tắc ngợi khen tài mà thay vào đó là cảnh tượng vắng vẻ đến thê lương. Với cảm xúc buồn thương thấp thoáng ở 2 câu thơ trên, giờ đây cái cảm xúc đó được thể hiện trong câu hỏi đầy băn khoăn day dứt:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Cũng là mỗi năm nhưng lại đứng sau từ nhưng - còn chữ thường làm đảo lộn trật tự quen thuộc. Số người còn chút mến yêu và kính trọng chữ nho giờ cũng mỗi năm mỗi vắng, khách quen cũng tan tác mỗi người một ngả. Để rồi 1 chút hy vọng nhỏ nhoi của Ông đồ là góp chút tài nghệ cùng mọi người vào mỗi dịp tết đến xuân về cũng dần tan biến bởi cuộc sống mưu sinh cũng ngày càng khó khăn. Bằng câu hỏi tu từ hết sức độc đáo, Vũ Đình Liên đã thể hiện 1 nỗi nuối tiếc của 1 thời kì vàng son để rồi đọng lại thành nỗi sầu, nỗi tủi thấm sang cả những vật vô tri vô giác:
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Giấy đỏ là thứ giấy dùng để ông đồ viết chữ lên, đó là 1 thứ giấy rất mỏng manh chỉ cần 1 chút ẩm ướt cũng có thể phai màu. Vậy mà "Giấy đỏ buồn không thắm" - không thắm bởi lâu nay không được dùng đến nên phôi pha úa tàn theo năm tháng. Mực cũng vậy - đó là thứ mực đen thẫm để ông đồ viết chữ, trước khi dùng thì ta phải mài mực rồi dùng bút lông họa lên những nét chữ. Nhưng nay "Mực đọng trong nghiên sầu" nghĩa là mực đã được mãi từ lâu, đã sẵn sàng cho bàn tay tài hoa của ông đồ để trổ tài nhưng đã đợi chờ trong vô vọng. Các từ buồn, sầu như thổi hồn vào sự vật cùng với phép nhân hóa đã khiến cho giấy đỏ, mực tàu vốn vo tri bỗng trở nên có hồn có suy nghĩ như con người. Nỗi buồn đó không chỉ thấm vào những đồ dùng mưu sinh hằng ngày mà cảm xúc đó của ông còn lan ra khung cảnh thiên nhiên, cảnh vật khiến không gian trở nên thật đìu hiu, xót xa:
Ông đồ vẫn ngồi đó
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay
Tuy nghề viết chữ không được người đời yêu mến và kính trọng nữa nhưng ông đã kiên trì, cố gắng ngồi bên lề đường chờ mong sự cưu mang giúp đỡ của người đời. Nhưng đâu có 1 ánh mắt nào để ý đến ông bên lề phố, không một trái tim nào đồng cảm và chia sẻ với ông. Bằng biện pháp tả cảnh ngụ tình nhà thơ Vũ Đình Liên đã cho ta thấy 1 khung cảnh thiên nhiên thật xót xa, đìu hiu trước tâm trạng của ông đồ:
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay
Nhưng thật băn khoăn tại sao giờ đang là mùa xuân lại có lá vàng rơi? Phải chăng hình ảnh lá vàng rơi gợi đến sự tàn phai, tàn lụi về 1 thời kỳ, 1 lớp người trong xã hội và 1 phong tục tập quán đẹp đẽ của dân tộc Việt Nam là chơi câu đối dỏ ngày tết giờ cũng trở thành quá khứ. Hình ảnh ông đồ cũng giống như hình ảnh lá vàng rơi, đã gắng níu kéo cuộc đời thầm lặng của mình nhưng so với thời đại mới thì chỉ còn là chiếc lá úa tàn đang rơi rụng. Nỗi buồn ấy âm thầm, tê tái nó đã khiến cơn mưa xuân vốn sức sống bền bỉ cũng trở nên đìu hiu xót xa
Ngoài giời mưa bụi bay
Giời - đó phải chăng là cách nói dân gian của những người tưởng như đã xa xưa lắm nhưng vẫn luôn hiện hữu. Câu thơ gợi ra tâm trạng buồn thảm của ông đồ trước cơn mưa bụi nhạt nhòa. Dẫu chỉ là mưa bay, mưa bụi nhưng nó cũng đủ sức xóa sạch đi dấu vết của 1 lớp người. Tuy đã không còn được người đời yêu mến, trọng vọng nữa nhưng đối với nhà thơ thì hình ảnh này vẫn luôn khắc sâu trong trái tim:
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Mở đầu bài thơ Ông đồ là hình ảnh rất nhẹ và kết thúc cũng với hình ảnh rất khẽ khàng. Năm xưa khi đào nở ta thấy ông đồ ngồi bên lề đường và hòa mình vào sự đông vui náo nhiệt của phố phường. Nhưng nay cùng thời điểm đó thì ông đã không còn nữa, hình ảnh xưa cũ cũng dần tan biến vào dòng thời gian. Tết đến xuân về, hoa đào lại nở, người người thì háo hức đi chợ sắm tết để chờ mong 1 năm đầy niềm vui và hy vọng. Tất cả đều rạo rực, tưng bừng. Cảnh còn đó nhưng người thì đâu? Giờ đây hình ảnh ông đồ chỉ còn là cái di tích tiều tụy đáng thương của 1 thời tàn, ông đã bị người đời quên lãng, bỏ rơi ngoài 1 thi sĩ Vũ Đình Liên. Dòng đời cứ trôi dần và trôi đi cả cuộc sống thanh bình đẹp đẽ, giờ chỉ còn là 1 nỗi trống trải, bâng khuâng để rồi nhà thơ cũng phải bật thành câu hỏi đầy cảm xúc:
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Hai câu thơ cuối tác giả đã trực tiếp bộc lộ cảm xúc dâng trào, kết đọng mang chiều sâu khái quát. Từ hình ảnh ông đồ nhà thơ liên tưởng đến hình ảnh những người muôn năm cũ và thi sĩ hỏi 1 cách xót xa: Hỏi mây hỏi trời, hỏi cuộc sống hỏi 1 thời đại, hỏi mà để cảm thông cho thân phận của những người muôn năm cũ đã bị thời thế khước từ. Câu hỏi tu từ đặt ra như 1 lờ tự vấn, tiềm ẩn sự ngậm ngùi, xót thương. Và tất cả những gì của 1 thời hoàng kim giờ cũng chỉ còn 1 màu sắc nhạt phai, tê tái. Với cách sử dụng thành công biện pháp tu từ, nhà thơ Vũ Đình Liên đã tái hiện lên hình ảnh ông đồ với cái di tích tiều tụy đáng thương của 1 thời tàn khiến chúng ta lại càng cảm thương, xót xa cho số phận của ông.
Chỉ với bài thơ Ông đồ ngụ ngôn ngắn gọn, tác giả đã làm sống dậy trong lòng người 1 niềm thương của sự luyến tiếc không nguôi. Đọc bài thơ ta cảm nhận được ở Vũ Đình Liên - một con người có lòng thương người, lòng nhân ái, sự cảm thông sâu sắc và luôn ân nghĩa thủy chung.
Phân tích bài thơ Ông đồ - mẫu 2
Người ta nói thời gian chính là cơn sóng dữ có thể xóa tan mọi thứ. Nó có thể khiến người ta quên đi những thứ mà ta đã từng quen thuộc. Và có phải vì thế mà nhiều những nhà thơ đa cảm lại hay có sự ám ảnh với thời gian. Vũ Đình Liên cũng vậy, 1 nhà thơ ám ảnh với thời gian, ám ảnh với những văn hóa cổ truyền của dân tộc bị thời gian lãng quên. Chính vì thế, mà ông đã tạo nên một hình ảnh ông đồ đầy sống động trong bài thơ “Ông Đồ".
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
...
"Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay"
Ngay từ đầu, Vũ Đình Liên đã tạc nên một ông đồ đầy tài năng và được tất cả mọi người yêu mến. Ông đồ hiện lên như một người nghệ sĩ tài hoa, chơi đùa với chính con chữ. Với hình ảnh so sánh ‘’phượng múa rồng bay’’, người nghệ sĩ đấy không chỉ ‘’thảo’’ nên những con chữ uốn lượn, đầy tinh tế như thân rồng, mình phượng mà còn như tạo nên linh hồn trong từng con chữ mình viết ra. Từng chữ, từng chữ như đang biết chuyển động, như đang bay trên chính trang giấy. Có phải vì thế mà người ta phải tắm tắc, ngợi khen chẳng hết lời. Dù vào mỗi đầu năm mới tới, khi những cánh hoa đào hé nở, hình ảnh quen thuộc ông lão bày bút, mực bên góc đường lại hiện ra nhưng người mua vẫn tấp nập, tới thuê viết và thưởng thức nét chữ tài hoa đó. Từ chỉ lượng không xác định "bao nhiêu" lại càng khẳng định sự tấp nập của những người thuê viết. Có thể nói, ông đồ hiện lên như một người nghệ sĩ trên góc phố quen thuộc, tạo nên những tác phẩm nghệ thuật được người người kính ngưỡng
Nhưng thời gian thật quá tàn nhẫn. Nó tàn phá mọi thứ và cũng dần xóa nhòa đi hình ảnh Ông Đồ trong trí nhớ người mua chữ.
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
...
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Dần dần, nho học suy vi, thất thế, mọi người dần quên đi hình ảnh ông lão với mực tàu, giấy đỏ bên đường. Câu hỏi tu từ bỗng phát ra như một lời than trách, tiếc thương của chính tác giả ‘’Người thuê viết nay đâu?’’. Những người từng mua chữ ông, những người đã từng thán phục trước những nét chữ tài hoa của ông giờ ở đâu. Họ đã đi đâu, tại sao không tới mua nữa khiến cho giấy kia phải buồn, nghiên kia phải sầu. Hình ảnh nhân hóa, đem linh hồn gửi cho giấy đỏ, mực tàu càng nhấn mạnh thêm nỗi buồn thương, đau đớn cho một hình ảnh đã từng là thân quen. Năm này qua năm khác, ông đồ vẫn ngồi đó bên góc phố thân quen cùng với mực tàu giấy đỏ nhưng điều khác biệt người mua viết nay đã không còn, chỉ còn lại ông với thiên nhiên sầu thảm. Người ta nói ‘’ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ ‘’. Có phải vì thế mà giấy buồn, nghiên phải sầu, lá vàng cũng rơi cùng với những hạt mưa phùn lất phất. Tất cả tạo nên một khung cảnh vạn vật như cùng buồn thương với chính Ông Đồ……
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Thời gian lại dần trôi qua. Vẫn là lúc năm mới quen thuộc, vẫn con phố cũ đấy, người ta cũng dần không còn nhìn thấy hình ảnh Ông Đồ đáng thương, bị quên lãng.Đau đớn thay, Cảnh vật vẫn vậy, hoàn cảnh vẫn thế nhưng con người nay đã đi đâu. Câu hỏi tu từ vang lên ở kết thúc của bài thơ như một câu chất vấn, trách móc đầy đau thương của tác giả ’’Hồn ở đâu bây giờ?’’. Những con người từng tấm tắc ngợi khen, từng chen chúc thuê viết nay ở đâu, những linh hồn dân tộc, những con người Việt Nam nay lại quên đi chính những nét truyền thống quen thuộc sao ?. Tóm lại, ông đồ là người nghệ sĩ nhưng cũng là một người nghệ sĩ đáng thương, một ông lão tội nghiệp bị quên lãng dần với thời gian
Có thể nói, bằng thể thơ 5 chữ hiện đại, bằng những hình ảnh vừa quen thuộc lại mới lạ, ngôn ngữ mộc mạc giản dị, Vũ Đình Liên đã vẽ nên hình ảnh người nghệ sĩ Ông Đồ đầy tài hoa và tội nghiệp. Đồng thời, nhà thơ cũng thể hiện niềm xót thương, và tình yêu với những nét văn hóa cổ truyền của dân tộc.
....................................
....................................
....................................
Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh năm 2023
A/ Dàn ý chi tiết
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả , tác phẩm : Quê hương là bài tiếng nổi tiếng của nhà thơ Tế Hanh.
- Khái quát nội dung tác phẩm: bài thơ thể hiện tình quê hương sâu đậm của tác giả - một người con xa quê.
II. Thân bài
a. Luận điểm 1: Bức tranh làng quê miền biển và cảnh lao động của người dân chài
* Bức tranh làng quê miền biển:
+ Lời giới thiệu: “vốn làm nghề chài lưới” ⇒ làng nghề đánh cá truyền thống
+ Vị trí: sát ngay bờ biển, “nước bao vây”
⇒ Lời giới thiệu giản dị, mộc mạc, không rườm rà, hoa mỹ.
* Cảnh lao động của người dân làng chài:
- Cảnh đánh bắt cá trên biển:
+ Không gian, thời gian: 1 buổi sớm trời trong, gió nhẹ ⇒ điều kiện thuận lợi để ra khơi.
+ Hình ảnh chiếc thuyền đánh cá: dũng mãnh vượt biển, thể hiện qua các động từ mạnh “hăng”, “phăng”, “mạnh mẽ vượt” và phép so sánh “như con tuấn mã”
+ Hình ảnh cánh buồm giữa biển khơi: con thuyền như linh hồn của người dân làng chài, nổi bật trên nền trời bao la rộng lớn ngoài biển khơi.
⇒ Khung cảnh tuyệt đẹp, trần đầy sức sống, sự tươi mới, hứa hẹn một ngày ra khơi thắng lợi.
- Cảnh con thuyền trở về sau 1 ngày lênh đênh trên biển
+ Người dân: tấp nập, hớn hở với thành quả của 1 ngày đánh bắt
+ Hình ảnh người dân chài: làn da “ngăm rám nắng” , thân hình “nồng thở vị xa xăm” ⇒ khỏe mạnh, đậm chất miền biển, đầy lãng mạn với “vị xa xăm” – vị của biển khơi, của muối, của gió biển – đặc trưng cho người dân chài.
+ Hình ảnh con thuyền: động từ nhân hóa “mỏi”, “nằm”, “nghe”,… con thuyền như một con người lao động, biết tự cảm nhận thân thể của mình sau một ngày lao động mệt mỏi.
⇒ Bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển và hình ảnh khỏe khoắn, tràn đầy sức sống, tinh thần lao động của người dân làng chài.
b. Luận điểm 2: Nỗi nhớ da diết, tình cảm thắm thiết của tác giả với quê hương của mình
- Liệt kê một loạt các hình ảnh của làng quê: “màu nước xanh”, “cá bạc”, “chiếc buồn vôi”, “con thuyền rẽ song”,… thể hiện nỗi nhớ quê hương chân thành, da diết của tác giả.
- Câu thơ cuối: “mùi nồng mặn” – mùi của biển khơi, cá tôm, mùi của con người ⇒ hương vị đặc trưng của quê hương miền biển. Câu cảm thán như một lời nói thốt ra từ chính trái tim của người con xa quê với một tình yêu thủy chung, gắn bó với nơi đã bao bọc mình.
c. Luận điểm 3: Nghệ thuật
- Thể thơ tám chữ phóng khoáng, phù hợp với việc bộc lộ cảm xúc giản dị, tự nhiên.
- Các hình ảnh liên tưởng, so sánh, nhân hóa vô cùng độc đáo.
- Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, giọng điệu nhẹ nhàng, da diết.
C. Kết bài:
- Khẳng định lại giá trị: Với những đặc sắc nghệ thuật bài thơ “Quê hương” không chỉ là thành công lớn trong sự nghiệp thơ Tế Hanh mà còn thể hiện tình cảm yêu thương, nỗi lòng sâu sắc, cảm động của tác giả đối với quê hương của mình.
- Liên hệ và đánh giá tác phẩm: Đây là bài thơ tiêu biểu nhất cho hồn thơ dạt dào tình cảm của Tế Hanh và cũng là một trong những bài thơ hay nhất viết về tình cảm quê hương.
B/ Sơ đồ tư duy
C/ Bài văn mẫu
Phân tích bài thơ Quê hương – mẫu 1
Nhà thơ Thanh Thảo có đôi lời nhận xét về nhà thơ Tế Hanh rằng: “Ngay từ lúc xuất hiện trong phong trào Thơ mới, thơ Tế Hanh đã là hiện tượng vì sự mộc mạc, chân thành, vì sự trong trẻo, giản dị như một dòng sông”. Nếu để nói về vị trí của ông trong Thơ mới thì ta có thể dùng hai từ “bình lặng”, hồn thơ ông không bật lên mạnh mẽ như cái cuồng nhiệt, say mê của Xuân Diệu, cũng không đủ kỳ dị, điên cuồng như Hàn Mặc Tử, không gây ấn tượng sâu sắc bởi sự “quê mùa” của Nguyễn Bính, và cũng chẳng có cái buồn thiên thu của Huy Cận.
Thế nhưng sau tất cả chưa bao giờ người ta quên đi Tế Hanh, một nhà thơ có chất giọng hồn nhiên, phong độ sáng tác đều đều, và mỗi tập thơ của ông đều được ghi dấu bằng một vài bài thơ đáng nhớ, đủ để ghi vào lòng độc giả những cảm xúc mới mẻ, tinh tế của một hồn thơ trẻ. Có thể nói quê hương là nguồn cảm hứng lớn nhất trong đời thơ của Tế Hanh mà bài thơ Quê hương chính là một khởi đầu đầy xuất sắc và hứa hẹn.
Quê hương dù được sáng tác vào những năm đầu khi Tế Hanh chập chững đặt những dấu chân đầu tiên trên thi đàn Việt Nam, cụ thể là trong phong trào Thơ mới thế nhưng bản thân tác phẩm đã đem đến những nguồn cảm xúc mới lạ, đồng thời cũng thể hiện được cái tài năng và duyên đặc biệt của nhà thơ đối với quê hương, một khái niệm rất đỗi thân thuộc nhưng không phải nhà thơ nào cũng đủ tinh tế để viết về nó một cách mềm mại và sâu sắc.
Khi nhận định về Tế Hanh và Quê hương Hoài Thanh đã viết rằng: “Tế Hanh là một người tinh lắm, Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương. Người nghe thấy được cả những điều không hình sắc, không thanh âm như mảnh hồn làng, trên cánh buồm giương... Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới rất gần gũi thường ta chỉ thấy mờ mờ…”. Mà sở dĩ có được ánh nhìn sâu sắc như vậy cũng bởi ông có sẵn một tâm hồn tha thiết sâu nặng với cuộc đời với quê hương và đất nước.
Mở đầu bài thơ là hai câu thơ giới thiệu khái quát về làng quê “Làng tôi vốn làm nghề chài lưới/Nước bao vây cách biển nửa ngày sông”, với giọng thơ rất đỗi nhẹ nhàng tình cảm tựa như một lời tự sự chân thành. Nhưng đó không chỉ là một lời giới thiệu, mà hơn thế nữa nó còn gợi ra dáng hình của quê hương, đó một làng chài “nước bao vây” tựa như một cù lao nổi lên trên sông dập dềnh sóng nước.
Nó cũng gợi ra những đặc điểm về vị trí địa lý, về khoảng cách từ làng ra tới biển cả bằng cụm từ “cách biển nửa ngày sông”, và cũng chỉ ra đó là một làng quê nghèo làm ăn sinh sống bằng nghề chài lưới vất vả. Tất cả đều được Tế Hanh dùng những từ ngữ giản dị, mộc mạc với lối ăn sóng nói gió đậm chất miền biển để diễn tả về một quê hương đầy tha thiết, với đôi mắt mặn nồng yêu thương.
“Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng,
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá:
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió...”
Với một người con miền biển có lẽ rằng cảnh dong thuyền đi đánh cá của ngư dân đã in sâu vào trí óc, thế nên Tế Hanh đã ghi lại bằng những cảm xúc dạt dào, trong sáng với những hình ảnh đầy chất thơ. Đó là một buổi sáng đẹp, trời trong xanh, gió hiu hiu thổi, ánh nắng ban mai ráng hồng trên khắp cả làng chài, và dưới khung cảnh tuyệt đẹp ấy những người thanh niên khỏe khoắn tràn đầy sức sống, bắt đầu công việc của mình với khí thế sôi nổi, rộn ràng.
“Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá”. Khung cảnh lao động dưới ánh mắt của nhà thơ diễn ra thật mạnh mẽ, tràn đầy khí thế, dưới sự hợp sức đầy quyết tâm của những chàng trai làng chài chiếc thuyền lướt nhẹ ra khơi, dường như không chịu bất kỳ cản trở nào, hùng dũng, tràn đầy sinh lực tựa như con tuấn mã đã kinh qua hàng trăm trận chiến.
Có thể nói rằng con thuyền trong thơ của Tế Hanh luôn nắm giữ vị thế chủ động, “Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang”, sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn, thuần thục và can trường trước sóng biển. Trước biển lớn, sóng nước mênh mông thế nhưng chiếc thuyền nhỏ bé lại nổi lên với khí thế mạnh mẽ, sôi sục lòng nhiệt huyết, dường như biển cả đã trở thành bức nền xanh làm bật lên vẻ đẹp hiên ngang của chiếc thuyền đánh cá.
Nhưng không chỉ dừng lại ở việc miêu tả khí thế sôi nổi lúc ra khơi, mà Tế Hanh còn rất tinh tế và khéo léo trong việc vận dụng thủ pháp so sánh giữa “cánh buồm” với “mảnh hồn làng”. Có thể nói rằng đây là đột phá nghệ thuật trong phong cách thơ của tác giả, lấy cái hữu hình đem so sánh với cái trừu tượng vốn tưởng là điều không thể nhưng Tế Hanh đã làm được mà còn làm rất xuất sắc.
Ông đã vẽ ra dáng hình mảnh hồn của làng chài miền biển một cách rất thần tình, tinh tế. Cánh buồm trắng mang theo mảnh hồn, mảnh tình, thấm đẫm tình cảm của quê hương, luôn theo sát từng bước chân ngư dân trong công cuộc lao động. Ở đó dung hòa nhiều thứ tình cảm đó là nỗi mong đợi, hy vọng thiết tha của những người ở lại và cả nỗi nhớ da diết, một lòng hướng về quê hương của những người đang lao động ngoài khơi xa.
Hình ảnh so sánh độc đáo đã mang về cho vần thơ của Tế Hanh sự lãng mạn, bay bổng, ở đó tình quê hiện lên một cách nhẹ nhàng, nhưng sâu sắc và gắn bó vô cùng. Ở câu thơ tiếp “Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”, ta nhận ra tác giả đã dùng biện pháp nhân hóa thông qua hai từ rất có sức gợi “rướn” và “thâu”.
Dường như cánh buồm mang mảnh hồn làng ấy cũng có linh tính về công việc của người ngư dân thế nên nó mới cố sức “rướn” tấm thân trắng sao cho thật rộng để “thâu” góp được nhiều gió, đẩy thuyền ra khơi thật nhanh, thật xa. Như vậy trong đôi mắt của Tế Hanh cánh buồm giờ đây cũng trở thành một nhân lực lao động, có những đóng góp nhất định vào công việc đánh bắt của người ngư dân.
Từ đó ta nhìn ra được tư tưởng đoàn kết, hỗ trợ và gắn bó sâu sắc của người dân làng chài, gắn bó từ trong tâm hồn, tư tưởng, không chỉ là ở con người mà còn ở cả sự vật, tất cả đã kết hợp nhịp nhàng để làm ra những kết quả lớn. Có cảnh ra khơi sôi nổi, nhiệt huyết thì cảnh ngư dân trở về cũng náo nhiệt và tươi vui không kém.
“Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.”
Vẫn tiếp tục với giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết yêu thương Tế Hanh, người đọc cảm nhận từ đoạn thơ cái cảm giác thư thái, thanh bình và niềm vui ấm no của ngư dân sau một đợt ra khơi đầy vất vả. Đồng thời Tế Hanh cũng thể hiện tấm lòng biết ơn sâu sắc đến biển cả quê hương, đã cho người dân được cuộc sống ấm no hạnh phúc, mẹ thiên nhiên nhân từ đã cho “biển lặng”, dốc công nuôi dưỡng nên nguồn cá dồi dào, ban cho ngư dân “Những con cá tươi ngon thân bạc trắng”, để họ được hưởng niềm sung sướng hạnh phúc khôn tả về một chuyến ra khơi về bội thu.
“Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”
Chính bởi sinh ra và lớn lên giữa làng quê làm nghề chài lưới nên Tế Hanh mới có được những cảm nhận rất chân thực và tinh tế về người ngư dân và cuộc sống tâm hồn của họ. Người ngư dân quan năm vật lộn với biển cả thế nên họ chẳng thể nào có được một làn da trắng trẻo, thay vào đó họ mang một màu da đặc trưng “làn da ngăm rám nắng”, mang cảm giác khỏe khoắn và cũng nhiều vất vả.
Tinh tế hơn cả không biết bằng cách nào mà Tế Hanh có thể cảm nhận được cái “nồng thở vị xa xăm” trên những con người của biển cả, đó là hương muối mặn mòi, hương gió tận khơi xa đã thấm vào tận trong tâm hồn, cốt cách của con người. Từ đó xây dựng nên một hình tượng rất riêng, hình tượng người dân làng chài với phong vị của biển cả, rất khỏe khoắn, rất lam lũ và cũng thân thuộc vô cùng.
Không chỉ có riêng cảm nhận về người ngư dân sau buổi đánh bắt xa bờ, mà Tế Hanh còn chú tâm đến cả con thuyền, nếu như lúc ra khơi thuyền hăng hái, xung phong một cách mạnh mẽ, thì khi trở về thuyền cũng trở nên trầm tĩnh, nằm nghỉ mệt sau một đêm dài dong buồm ra khơi. Có thể nói Tế Hanh luôn cảm nhận sự vật ở góc độ chúng linh tính, ông luôn mang ánh mắt thông cảm và yêu thương để nhìn tất thảy mọi vật trên quê hương, kể cả mảnh hồn làng vốn không bóng hình cũng trở nên có nét.
Thuyền cũng như con người cũng biết cố sức dong buồm căng gió, rồi sau những cố gắng không ngừng nghỉ thuyền cũng muốn được nghỉ ngơi, tạo nên một cảm giác thư thả, yên bình của làng chài sau những ngày lao động vất vả. Con thuyền nằm im “Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ” như đang tâm sự với biển cả, ôn lại kỷ niệm ra khơi.
Và ở đó người ta nhận thấy có một sự chuyển đổi cảm giác rất đặc sắc, vị giác của Tế Hanh nếm thấy vị mặn của muối, tai thì “nghe” thấy vị muối và dùng xúc giác để cảm nhận sự mặn mòi của biển cả đang thấm dần trong thớ vỏ con thuyền, hay trong thân thể con người quê hương. Đó chính là sự hòa quyện, gắn bó sâu sắc của vạn vật đối với biển cả của quê hương.
Quê hương của Tế Hanh mang những đặc điểm nghệ thuật quen thuộc như so sánh, nhân hóa, từ ngữ giản dị, mộc mạc, thế nhưng bằng cái ánh nhìn và cảm nhận tinh tế nhà thơ đã đưa chúng ta đến với một bức tranh sinh hoạt của làng chài vừa sinh động vừa tình cảm nên thơ vô cùng.
Ở đó ta thấy Tế Hanh đã dành cho quê hương mình những tình cảm rất đỗi tha thiết sâu nặng, thế nên dù khi đã đi xa nhưng ông vẫn mãi nhớ về một quê hương với những con người mặn mòi muối biển, hơi thở nồng đượm vị xa xăm, vẫn nhớ như in cảnh con thuyền nằm im trên bến đỗ ngẫm nghĩ về biển cả mênh mông.
Phân tích bài thơ Quê hương – mẫu 2
Quê hương là nguồn cảm hứng vô tận của nhiều nhà thơ Việt Nam và đặc biệt là Tế Hanh – một tác giả có mặt trong phong trào Thơ mới và sau cách mạng vẫn tiếp tục sáng tác dồi dào. Ông được biết đến qua những bài thơ về quê hương miền Nam yêu thương với tình cảm chân thành và vô cùng sâu lắng.
Ta có thể bắt gặp trong thơ ông hơi thở nồng nàn của những người con đất biển, hay một dòng sông đầy nắng trong những buổi trưa gắn với tình yêu quê hương sâu sắc của nhà thơ. Bài thơ “Quê hương” là kỉ niệm sâu đậm thời niên thiếu, là tác phẩm mở đầu cho nguồn cảm hứng về quê hương trong thơ Tế Hanh, bài thơ đã được viết bằng tất cả tấm lòng yêu mến thiên nhiên thơ mộng và hùng tráng, yêu mến những con người lao động cần cù.
Bài thơ được viết theo thể thơ tám chữ phối hợp cả hai kiểu gieo vần liên tiếp và vần ôm đã phần nào thể hiện được nhịp sống hối hả của một làng chài ven biển:
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Quê hương trong tâm trí của những người con Việt Nam là mái đình, là giếng nước gốc đa, là canh rau muống chấm cà dầm tương. Còn quê hương trong tâm tưởng của Tế Hanh là một làng chài nằm trên cù lao giữa sông và biển, một làng chài sóng nước bao vây, một khung cảnh làng quê như đang mở ra trước mắt chúng ta vô cùng sinh động: “Trời trong – gió nhẹ – sớm mai hồng”, không gian như trải ra xa, bầu trời như cao hơn và ánh sáng tràn ngập.
Bầu trời trong trẻo, gió nhẹ, rực rỡ nắng hồng của buổi bình minh đang đến là một báo hiệu cho ngày mới bắt đầu, một ngày mới với bao nhiêu hi vọng, một ngày mới với tinh thần hăng hái, phấn chấn của biết bao nhiêu con người trên những chiếc thuyền ra khơi:
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Nếu như ở trên là miêu tả vào cảnh vật thì ở đây là đặc tả vào bức tranh lao động đầy hứng khởi và dạt dào sức sống. Con thuyền được so sánh như con tuấn mã làm cho câu thơ có cảm giác như mạnh mẽ hơn, thể hiện niềm vui và phấn khởi của những người dân chài. Bên cạnh đó, những động từ “hăng”, “phăng”, “vượt” diễn tả đầy ấn tượng khí thế băng tới vô cùng dũng mãnh của con thuyền toát lên một sức sống tràn trề, đầy nhiệt huyết. Vượt lên sóng. Vượt lên gió. Con thuyền căng buồm ra khơi với tư thế vô cùng hiên ngang và hùng tráng:
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…
Từ hình ảnh của thiên nhiên, tác giả đã liên tưởng đến “hồn người”, phải là một tâm hồn nhạy cảm trước cảnh vật, một tấm lòng gắn bó với quê hương làng xóm Tế Hanh mới có thể viết được như vậy. Cánh buồm trắng vốn là hình ảnh quen thuộc nay trở nên lớn lao vào thiên nhiên.
Cánh buồm trắng thâu gió vượt biển khơi như hồn người đang hướng tới tương lai tốt đẹp.Có lẽ nhà thơ chợt nhận ra rằng linh hồn của quê hương đang nằm trong cánh buồm. Hình ảnh trong thơ trên vừa thơ mộng vừa hoành tráng, nó vừa vẽ nên chính xác hình thể vừa gợi được linh hồn của sự vật.
Ta có thể nhận ra rằng phép so sánh ở đây không làm cho việc miêu tả cụ thể hơn mà đã gợi ra một vẻ đẹp bay bổng mang ý nghĩa lớn lao. Đó chính là sự tinh tế của nhà thơ. Cũng có thể hiểu thêm qua câu thơ này là bao nhiêu trìu mến thiêng liêng, bao nhiêu hy vọng mưu sinh của người dân chài đã được gửi gắm vào cánh buồm đầy gió.
Dấu chấm lửng ở cuối đoạn thơ tạo cho ta ấn tượng của một không gian mở ra đến vô cùng, vô tận, giữa sóng nước mênh mông, hình ảnh con người trên chiếc tàu nhỏ bé không nhỏ nhoi đơn độc mà ngược lại thể hiện sự chủ động, làm chủ thiên nhiên của chính mình.
Cả đoạn thơ là khung cảnh quê hương và dân chài bơi thuyền ra đánh cá, thể hiện được một nhịp sống hối hả của những con người năng động, là sự phấn khởi, là niềm hi vọng, lạc quan trong ánh mắt từng ngư dân mong đợi một ngày mai làm việc với bao kết quả tốt đẹp:
Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
Những tính từ “ồn ào”, “tấp nập” toát lên không khí đông vui, hối hả đầy sôi động của cánh buồm đón ghe cá trở về. Người đọc như thực sự được sống trong không khí ấy, được nghe lời cảm tạ chân thành đất trời đã sóng yên, biển lặng để người dân chài trở về an toàn và cá đầy ghe, được nhìn thấy “những con cá tươi ngon thân bạc trắng”.
Tế Hanh không miêu tả công việc đánh bắt cá như thế nào nhưng ta có thể tưởng tượng được đó là những giờ phút lao động không mệt mỏi để đạt được thành quả như mong đợi. Sau chuyến ra khơi là hình ảnh con thuyền và con người trở về trong ngơi nghỉ:
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Có thể nói rằng đây chính là những câu thơ hay nhất, tinh tế nhất của bài thơ. Với lối tả thực, hình ảnh “làn da ngắm rám nắng” hiện lên để lại dấu ấn vô cùng sâu sắc thì ngay câu thơ sau lại tả bằng một cảm nhận rất lãng mạn “Cả thân hình nồng thở vị xa xăm” – Thân hình vạm vỡ của người dân chài thấm đẫm hơi thở của biển cả nồng mặn vị muối của đại dương bao la. Cái độc đáo của câu thơ là gợi cả linh hồn và tầm vóc của con người biển cả. Hai câu thơ miêu tả về con thuyền nằm im trên bến đỗ cũng là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo.
Nhà thơ không chỉ thấy con thuyền nằm im trên bến mà còn thấy cả sự mệt mỏi của nó. Cũng như dân chài, con thuyền có vị mặn của nước biển, con thuyền như đang lắng nghe chất muối của đại dương đang thấm trong từng thớ vỏ của nó. Thuyền trở nên có hồn hơn, nó không còn là một vật vô tri vô giác nữa mà đã trở thành người bạn của ngư dân.
Không phải người con làng chài thì không thể viết hay như thế, tình như thế, và cũng chỉ viết được những câu thơ như vậy khi tâm hồn Tế Hanh hòa vào cảnh vật cả hồn mình để lắng nghe. Ở đó là âm thanh của gió rít nhẹ trong ngày mới, là tiếng sóng vỗ triều lên, là tiếng ồn ào của chợ cá và là những âm thanh lắng đọng trong từng thớ gỗ con thuyền.
Có lẽ, chất mặn mòi kia cũng đã thấm sâu vào da thịt nhà thơ, vào tâm hồn nhà thơ để trở thành nỗi niềm ám ảnh gợi bâng khuâng kì diệu. Nét tinh tế, tài hoa của Tế Hanh là ông “nghe thấy cả những điều không hình sắc, không âm thanh như “mảnh hồn làng” trên “cánh buồm giương”…
Thơ Tế Hanh là thế giới thật gần gũi, thường ta chỉ thấy một cách lờ mờ, cái thế giới tình cảm ta đã âm thầm trao cảnh vật: sự mỏi mệt, say sưa của con thuyền lúc trở về bến…”Nói lên tiếng nói từ tận đáy lòng mình là lúc nhà thơ bày tỏ tình cảm của một người con xa quê hướng về quê hương, về đất nước :
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc thuyền vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá
Nếu không có mấy câu thơ này, có lẽ ta không biết nhà thơ đang xa quê, ta thấy được một khung cảnh vô cùng sống động trước mắt chúng ta, vậy mà nó lại được viết ra từ tâm tưởng một cậu học trò, từ đó ta có thể nhận ra rằng quê hương luôn nằm trong tiềm thức nhà thơ, quê hương luôn hiện hình trong từng suy nghĩ, từng dòng cảm xúc. Nối nhớ quê hương thiết tha bật ra thành những lời nói vô cùng giản dị: “Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá”. Quê hương là mùi biển mặn nồng, quê hương là con nước xanh, là màu cá bạc, là cánh buồm vôi.
Màu của quê hương là những màu tươi sáng nhất, gần gũi nhất. Tế Hanh yêu nhất những hương vị đặc trưng quê hương đầy sức quyến rũ và ngọt ngào. Chất thơ của Tế Hanh bình dị như con người ông, bình dị như những người dân quê ông, khoẻ khoắn và sâu lắng. Từ đó toát lên bức tranh thiên nhiên tươi sáng, thơ mộng và hùng tráng từ đời sống lao động hàng ngày của người dân.
Bài thơ đem lại ấn tượng khó phai về một làng chài cách biển nửa ngày sông, lung linh sóng nước , óng ả nắng vàng. Dòng sông, hồn biển ấy đã là nguồn cảm hứng theo mãi Tế Hanh từ thuở “hoa niên” đến những ngày tập kết trên đất Bắc. Vẫn còn đó tấm lòng yêu quê hương sâu sắc, nồng ấm của một người con xa quê:
Tôi dang tay ôm nước vào lòng
Sông mở nước ôm tôi vào dạ
...
Nhưng lòng tôi như mưa nguồn gió biển
Vẫn trở về lưu luyến bến sông
(Nhớ con sông quê hương – 1956)
Với tâm hồn bình dị, Tế Hanh xuất hiện trong phong trào Thơ mới nhưng lại không có những tư tưởng chán đời, thoát li với thực tại, chìm đắm trong cái tôi riêng tư như nhiều nhà thơ thời ấy. Thơ Tế Hanh là hồn thi sĩ đã hòa quyện cùng với hồn nhân dân, hồn dân tộc, hòa vào “cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”.
“Quê hương” – hai tiếng thân thương, quê hương – niềm tin và nỗi nhớ, dù trong tâm tưởng người con đất Quảng Ngãi thân yêu – Tế Hanh – đó là những gì thiêng liêng nhất, tươi sáng nhất. Bài thơ với âm điệu khỏe khoắn, hình ảnh sinh động tạo cho người đọc cảm giác hứng khởi, ngôn ngữ giàu sức gợi vẽ lên một khung cảnh quê hương “rất Tế Hanh”.
....................................
....................................
....................................