Thuyết minh một danh lam thắng cảnh giàu tiềm năng năm 2023
Thuyết minh một danh lam thắng cảnh giàu tiềm năng năm 2023
Bài văn Thuyết minh một danh lam thắng cảnh giàu tiềm năng gồm dàn ý chi tiết, 5 bài văn phân tích mẫu được tuyển chọn từ các bài văn phân tích đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài kiểm tra, bài thi môn Ngữ văn 8.
Thuyết minh một danh lam thắng cảnh giàu tiềm năng - mẫu 1
Ngay từ khi thành lập, huyện Lâm Bình đã xác định du lịch sẽ là một trong những lĩnh vực đột phá, do vậy việc đầu tư khai thác du lịch cũng đã được ưu tiên phát triển. Tuy nhiên việc khai thác hết được tiềm năng về du lịch của huyện vẫn là điều trăn trở.
Thiên nhiên đã ban tặng cho Lâm Bình hệ sinh thái đa dạng có nhiều cảnh đẹp hùng vĩ, sơn thủy hữu tình. Nổi bật là 99 ngọn núi xã Thượng Lâm được ví là “Hạ Long cạn giữa đại ngàn”. Thượng Lâm không chỉ nổi tiếng bởi thiên nhiên đã ban tặng cho nơi đây những phong cảnh nên thơ được bao bọc bởi những dãy núi trùng trùng, điệp điệp hay là truyền thuyết về Phượng hoàng bay về mà Thượng Lâm còn là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Du lịch văn hóa tâm linh là một trong những tiềm năng lớn của huyện Lâm Bình, hiện trên địa bàn còn lưu giữ được những ngôi đền, chùa có niên đại từ khá lâu, mang đậm nét văn hóa của đồng bào dân tộc vùng cao trong đó phải kể đến là ngôi đền Pú Bảo, chùa Phúc Lâm.
Đền Pú Bảo là nơi thờ Quận công Thiếu Bảo tức Tướng quân Nguyễn Thế Quần, một Quận công vừa có tài vừa có đức, luôn chăm lo đến đời sống của muôn dân. Theo truyền thuyết, vào khoảng thế kỷ 16, tại xã Dương Nội, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây cũ, có 2 anh em dòng họ Nguyễn Thế đã di cư lên miền ngược sinh sống. Người em đã chọn xã Ỷ La nay là phường Ỷ La, thành phố Tuyên Quang để sinh sống. Tại đây, người em đã lập nghiệp, xây dựng gia đình và sinh được 3 người con trai. Khi lớn lên, người con cả Nguyễn Thế Quần đã di cư lên vùng sơn cước thuộc châu Vị Xuyên, xứ Tuyên Quang, nay là xã Lăng Can, huyện Lâm Bình để sinh sống và chuyên dạy chữ cho con em các dân tộc trong xã. Quý trọng tư chất thông minh và đạo đức của ông, Quận công cai quản vùng đất Vị Xuyên lúc đó đã gả con gái và nhường ngôi Quận công.
Sau khi lên ngôi, ông đã dành toàn bộ thời gian và tâm sức để chăm lo đời sống cho người dân trong vùng. Với tài nghệ văn, võ song toàn, ông đã cầm quân đi dẹp tan giặc loạn. Ngày mùng 9 tháng 8 năm Cảnh Hưng thứ 11 (1750), Vua Lê Hiển Tông đã ban sắc phong Nguyễn Thế Quần là Siêu Nhạc Bá, một trong 5 tước trong triều đình lúc bấy giờ. Sau khi ông mất, để đền đáp công ơn của Quận công Nguyễn Thế Quần, nhân dân địa phương đã xây dựng ngôi đền thờ Quận công, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân. Đền được xây dựng vào khoảng thế kỷ 16 – 17 nằm trên cánh đồng Nà Tha, thôn Bản Kè B, xã Lăng Can có địa thế như sự hội tụ của linh khí núi sông. Đền quay theo hướng Bắc, nhìn ra cánh đồng, xung quanh có nhiều ngọn núi chầu vào như thuần phục. Năm 2014, Đền được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Đền Pú Bảo đã trở thành điểm đến của đông đảo nhân dân địa phương và du khách gần xa.
Chùa Phúc Lâm nằm ở thôn Nà Tông, là một ngôi chùa cổ được xây dựng từ thời nhà Trần, vào khoảng thế kỷ 13-14. Chùa đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích cấp quốc gia. Năm 2011, chùa được phục dựng bằng gỗ, theo hướng Tây Nam, nằm ngay trên khuôn viên của ngôi chùa cũ, kiến trúc hình chữ Nhất theo phong cách kiến trúc cổ Việt Nam, gồm một gian hai chái, mái lợp gạch nung. Hàng năm, cứ vào dịp lễ tết (nhất là dịp lễ hội Lồng tồng vào ngày 15 tháng Giêng), nhân dân và du khách gần xa đến với Lâm Bình đều hướng tới ngôi chùa Phúc Lâm để tham quan, cầu an, cầu lộc, cầu cho mùa màng bội thu.
Kể từ khi được tích nước, hồ thủy điện Tuyên Quang trở thành một vùng hồ rộng tới trên 8.000 ha với nhiều cảnh quan thiên nhiên sơn thủy hữu tình làm say đắm lòng người, trong đó diện tích chủ yếu nằm trên đất huyện Lâm Bình và huyện Nà Hang. Đi dọc lòng hồ giữa cảnh sông nước núi non hùng vĩ, với điểm nhấn là núi cọc Vài (tiếng Tày nghĩa là cọc buộc trâu) gắn với sự tích chàng Tài Ngào. Đi tiếp nữa là gặp thác Nậm Mè (nghĩa là suối mẹ). Từ đoạn hợp lưu giữa sông Gâm với sông Năng là một vùng sông nước, núi non hùng vĩ với những bóng cây cổ thụ của những cánh rừng nguyên sinh đổ xuống mặt nước. Lâm Bình còn có những thắng cảnh đẹp khác như: động Song Long, thác Mặn Me, thác Khuổi Nhi, thác Khuổi Súng; di tích khảo cổ hang Phia Vài… Đây là những di tích, danh lam thắng cảnh quốc gia, thuận lợi cho phát triển du lịch văn hóa và sinh thái.
Những năm gần đây, huyện Lâm Bình đã cho khôi phục các lễ hội truyền thống như Lễ hội Lồng tồng xã Thượng Lâm, Lăng Can; lễ hội nhảy lửa của đồng bào dân tộc Pà Thẻn xã Hồng Quang. Các lễ hội của Lâm Bình mang đậm màu sắc dân gian độc đáo đã thu hút đông đảo du khách trong và ngoài tỉnh vào những dịp đầu xuân.
Khách du lịch đến với Lâm Bình còn được thưởng thức những món ăn truyền thống của người Tày, người Dao như cơm lam, thịt chua, thịt trâu khô, cá mắm ruộng, chè Khau Mút, rượu ngô, rượu thóc men lá…
Ngay sau khi thành lập huyện, Lâm Bình đã thực hiện công tác quy hoạch phát triển tổng thể du lịch huyện đến năm 2015, định hướng đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030. Theo đó, huyện đã triển khai khôi phục, duy trì và tổ chức các sự kiện văn hóa như Lễ hội Lồng tồng, nhảy lửa, các nét văn hóa truyền thống của dân tộc. Thời gian qua, huyện đã khôi phục và nâng cấp lễ hội Lồng tồng xã Lăng Can thành lễ hội cấp huyện, phục dựng chùa Phúc Lâm; khuyến khích các tập thể và cá nhân trong và ngoài tỉnh đầu tư vào các điểm, khu du lịch.
Nhờ đó, số lượng khách du lịch đến với huyện Lâm Bình ngày một tăng. Năm 2011, huyện đón được 3.500 lượt khách du lịch, đến năm 2014, tổng lượt khách đến với Lâm Bình đạt 8.000 lượt, bằng 190% kế hoạch đề ra. Hoạt động du lịch đã góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế xã hội của huyện, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái, công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch được chú trọng, công tác xã hội hóa du lịch từng bước được đẩy mạnh. Đặc biệt, thời gian qua, các cơ quan chức năng của tỉnh và Bộ Tài nguyên và Môi trường đã hoàn thành “Đề cương nghiên cứu, xây dựng Công viên Địa chất Nà Hang – Lâm Bình, Tuyên Quang” trình Chính phủ xem xét, công nhận là Công viên địa chất quốc gia. Khu vực được coi là “hội tụ nhiều giá trị di sản tự nhiên và văn hóa, đặc biệt là các di sản địa chất – địa mạo, các di tích lịch sử, khảo cổ, đa dạng sinh học… có giá trị nổi bật tầm cỡ quốc gia và quốc tế”. Đây sẽ là cơ hội lớn để du lịch Lâm Bình cất cánh.
Dàn ý Thuyết minh một danh lam thắng cảnh giàu tiềm năng
A. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về danh lam thắng cảnh: Việt Nam ta luôn tự hào với muôn vàn danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp, nổi tiếng, trong số đó, khu du lịch Tam Cốc - Bích Động đã và đang thu hút được rất nhiều sự chú ý của khách du lịch trong và ngoài nước bởi những cảnh đẹp hùng vĩ, vừa hoang sơ, vừa thơ mộng, giản dị.
B. Thân bài:
1. Luận điểm 1: Vị trí địa lý
- Tam Cốc – Bích Động có tổng diện tích lên đến 350.3 ha, nằm cách quốc lộ 1A 2 km, cách thành phố Ninh Bình 7 km, cách thành phố Tam Điệp 9 km.
- Tam Cốc – Bích Động nổi tiếng với hệ thống các hang động núi đá vôi tuyệt đẹp và các di tích lịch sử liên quan đến một triều đại lớn của nước ta – triều đại nhà Trần.
2. Luận điểm 2: Kết cấu
- Khu du lịch Tam Cốc - Bích Động gồm 2 phần chính: Tam Cốc và Bích Động
- Tam Cốc: có nghĩa là “ba hang” gồm hang Cả, hang Hai và hang Ba. Cả 3 hang đều được tạo thành bởi dòng sông Ngô Đồng chảy xuyên qua núi.
+ Hang Cả có chiều dài lên đến 127m, với cửa hàng rộng mở, hang đâm xuyên qua một quả núi lớn tạo sự kì thú, hấp dẫn du khách. Đặc biệt khí hậu trong hang khá mát và có nhiều nhũ đá rủ xuống với muôn hình vạn trạng khiến nơi đây như một bức họa của thiên nhiên tạo hóa.
+ Hang Hai nằm cách hang Cả gần 1 km, dài 60 m, trần hang cũng có nhiều nhũ đá rủ xuống rất kỳ lạ.
+ Hang Ba tuy nhỏ hơn hang cả và hang Hai, nhưng xấu tạo trần hang lại có hình vòm đá vô cùng kì lạ.
+ Bên cạnh đó còn có các công trình kiến trúc khác: Đền Thái Vi và Động Thiên Hng.
- Khu Bích Động - Xuyên Thủy Động: Bích Động nằm cách bến Tam Cốc 2 km, có nghĩa là "động xanh", cái tên này do tể tướng Nguyễn Nghiễm, cha của đại thi hào Nguyễn Du đặt cho động năm 1773.
+ Bích Động gồm 1 hang động khô ngự trên lưng chừng núi. Trên đó có công trình kiến trúc nổi tiếng của phật giáo:chùa Bích Động. Bên cạnh đó là một hang động nước chảy xuyên qua lòng núi nên được gọi là Xuyên Thủy động.
+ Xuyên Thủy động là một công trình kiến trúc vô cùng đặc biệt của thiên nhiên tạo hóa. Kết cấu của Xuyên Thủy động như 1 đường ống hình bán nguyệt bằng đá và uốn lượn từ phía Đông sang phía Tây. Trần và vách động thường bằng phẳng, tạo hoá như xếp từng phiến đá lớn thành mái vòm cung, bán nguyệt với muôn hình vạn trạng, góp phần tăng thêm vẻ đẹp kì thú cho động.
3. Luận điểm 3: Ý nghĩa của danh lam thắng cảnh
- Khu du lịch Tam Cốc - Bích Động nằm trong quần thể danh thắng Tràng An, được Thủ tướng chính phủ Việt Nam xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt và được tổ chức UNESCO công nhận là di sản thế giới.
- Tam Cốc - Bích Động có sức hấp dẫn đặc biệt với du khách ở cảnh quan tuyệt đẹp và sự thanh bình, không khí trong lành, tươi mát, tràn đầy linh khí. Có thể nói, Tam Cốc - Bích Động vừa in đậm dấu ấn lịch sử nhà Trần, vừa có sức quyến rũ, hấp dẫn từ những hang động bí ẩn, những cảnh đẹp giản dị, thanh bình, lại vừa mang trong mình bầu linh khí của thế giới tâm linh - Phật giáo.
C. Kết bài:
- Không thể phủ nhận, Tam Cốc - Bích Động chính là một niềm tự hào của người dân kinh đô Hoa Lư nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung.
- Chúng ta cần phải giữ gìn và phát triển những giá trị tự nhiên - truyền thống này của dân tộc.
Thuyết minh một danh lam thắng cảnh giàu tiềm năng - mẫu 2
Trong số rất nhiều những địa điểm du lịch hiện nay, không phải địa danh nào cũng được nhiều du khách ghé đến. Tuy nhiên, nằm cách thủ đô Hà Nội khoảng gần 40 phút lái xe, có một điểm du lịch đặc biệt thu hút các bạn trẻ tới thăm, đó chính là Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam.
Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam là một phần của khu du lịch Đồng Mô, thuộc thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội, được khánh thành vào ngày 19-9-2010 nhân dịp chào mừng đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Từ nội thành đi tới đây mất quãng đường dài khoảng 40 km. Đây là địa danh với nhiều điểm tham quan hấp dẫn. Với diện tích khoảng 198,61 ha, khu các làng dân tộc chia làm 4 cụm làng tương ứng với từng vùng miền khác nhau. Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam được thiết kế với kiến trúc tái hiện lại các làng, bản của các dân tộc nhằm giới thiệu và bảo tồn và phát triển giá trị lịch sử, văn hóa độc đáo.
Từ cổng vào, du khách có thể thuê xe điện để được đưa đến những khu làng của các dân tộc khác nhau với mức vé phải chăng: 30000đ/người lớn và trẻ em dưới 6 tuổi thì được miễn phí vé vào. Hành trình đến thăm trình tự các làng tùy theo nhu cầu của du khách. Điểm cuối cùng là Tháp Chàm, chùa Khơ –me. Chùa Khơ me được xây dựng với màu vàng óng bao trùm. Chùa được thiết kế mái nhọn, trần rộng, có các cột trụ lớn, bên trong đặt một tượng Phật lớn. Tháp Chàm cao 21 m, nối cổng vào là tháp Đông, khu tháp này được thiết kế tương đối giống với tháp của người Chăm và được làm bằng đất sét nung. Tiếp theo du khách có thể tới tham quan khu nhà Tây Nguyên với các nhà sàn mô phỏng, bên trong khu nhà sàn rất mát mẻ, còn có khu nhà sàn phục vụ du khách nghỉ ăn trưa. Nhà rông được xây dựng rất to với cấu trúc mái cao đặc trưng. Từ đây du khách có thể di chuyển tới làng văn hóa các dân tộc Thái với cánh đồng hoa tam giác mạch, khu nhà chính và thưởng thức nhiều hoạt động vui chơi văn nghệ được biểu diễn bới chính nghệ nhân thuộc các dân tộc,… Phong cảnh nơi đây tương đối thanh bình và thoáng đáng, thích hợp để thư giãn.
Tại khu du lịch, du khách sẽ thường xuyên được tham gia lễ hội. Các lễ hội đặc biệt thu hút khách du lịch tham gia. Thông qua đó, giá trị của làng được quảng bá. Lễ hội mùa xuân thường được tổ chức vào dịp đầu năm, nhiều trò chơi dân gian được tổ chức như đu quay, ném còn,..
Có thể khẳng định rằng, Làng Văn hoá – Du lịch các Dân tộc Việt Nam là nơi tái hiện những giá trị văn hoá đặc sắc của 54 dân tộc Việt Nam. Đây là điểm tham quan du lịch vô cùng lí tưởng cho du khách trong nước cũng như quốc tế. Thông qua khi du lịch này, chúng ta hiểu thêm nhiều hơn về đặc trưng dân tộc của Việt Nam, đáp ứng các nhu cầu vui chơi giải trí lành mạnh, hoạt động thể thao, dưỡng sinh, văn nghệ,...
Thông qua các địa điểm tham quan độc đáo cùng những hoạt động văn hóa, nghệ thuật có nội dung, hình thức phong phú và hấp dẫn, tái hiện chân thực bản sắc dân tộc, làng văn hóa các dân tộc đã giúp mỗi người khi đến đây bồi đắp thêm cho mình tình yêu đất nước và tinh thần đoàn kết với các dân tộc anh em.
Thuyết minh một danh lam thắng cảnh giàu tiềm năng - mẫu 3
U Minh là một vùng đất sình lầy, chằng chịt kênh rạch, rừng xanh điệp trùng bao la, trải dài trải rộng trên một diện tích gần 2000 km2.
Rừng U Minh tựa lưng vào miền tây Nam Bộ, mặt hướng ra vịnh Thái Lan, trải dài từ sông Ong Đốc phía Nam (tỉnh Cà Mau) cho đến sông Cái Lớn (tỉnh Kiên Giang) phía bắc. Sông Trèm Trẹm và sông Cái Tàu chia u Minh thành hai phần xấp xỉ nhau, đó là u Minh Thượng ở phía Bắc và u Minh Hạ ở phía Nam.
Thiên nhiên ở u Minh vô cùng hoang sơ và hùng vĩ. Trước năm 1945, hai tiếng u Minh gợi lên cái gì xa xăm và thăm thẳm, heo hút và mênh mông. Nhà văn Sơn Nam trong cuốn “Văn minh miệt Vườn" đã viết: U Minh có nghĩa là tối và mờ, u u minh minh, có lẽ ở đây cây cỏ quá dày và rậm rạp, nước ngập lênh láng, đất lại thấp nên thuở xưa còn gọi là Láng Biển, Láng u Minh”.
Có thể đến u Minh bằng đường thủy, hoặc đường bộ nhưng đường thủy thuận tiện hơn. Đi xuồng máy tới Cà Mau, theo sông Cái Tàu và sông Trèm Trẹm mà đi lên. Hoặc dùng tàu, thuyền từ Rạch Giá men theo bờ biển mà đi xuống.
Rừng ngập mặn ở Cà Mau là rừng đước. Còn rừng ở u Minh là rừng tràm. Cây tràm cao từ 10-20 m; từ xa nhìn chỉ thấy một màu xanh vô tận của rừng tràm nối tiếp với màu xanh bao la của da trời. Cây tràm là thứ gỗ quý của rừng U Minh. Ngoài ra còn có cây móp và dây choai. Dây choai dẻo và bền không kém gì song mây, để bện đăng hoặc làm nguyên liệu cho hàng thủ công mĩ nghệ. Rễ móp rất nhẹ, dai, xốp, dể làm phao lưới cá, làm nút chai.
Mùa hè đến, rừng tràm nở hoa trắng xóa, dâng hương ngào ngạt. Hàng ngàn, hàng vạn… đàn ong kéo về hút nhụy hoa, mật hoa. Những người “ăn ong” kéo nhau vào rừng tràm "gác kèo" cho ong làm tổ. Mỗi tổ ong có thể cho vài lít mật; mỗi người “gác kèo" có thể lấy được hàng trăm lít mật ong sau mỗi mùa hoa. Mật ong rừng tràm u Minh có màu vàng óng, trong veo, để lâu không biến màu, biến chất, có hương vị ngát thơm ngọt ngào đặc biệt. Rừng tràm u Minh mỗi năm có thể cung cấp khoảng 50-60 tấn mật ong. Hoa tràm chứa 2% tinh dầu. Tinh dầu tràm màu vàng xanh trong suốt là một dược liệu quý hiếm.
Rừng u Minh là xứ sở của muỗi mòng và thú dữ, heo rừng, khỉ, kì đà, rắn, trăn, cá sấu, cọp. Ca dao còn truyền lại:
“U Minh, Rạch Giá, thị quán sơn trường,
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua.”
Kênh rạch u Minh nhiều tôm cá. Rừng u Minh là một sân chim khổng lồ với hàng trăm loài chim. Tiếng chim xào xạc trong vòm cây lá. Chiều chiều, từng đàn chim che rợp bầu trời. Trong màn đêm vẫn có một số loài chim gọi nhau đi ăn đêm. Tiếng chim gọi đàn, tiếng lá reo, tiếng sóng vỗ trên sông Cái Tàu, sông Trèm Trẹm, trên vịnh Thái Lan… lao xao, rì rầm suốt đêm ngày tạo nên khúc nhạc rừng U Minh đã mấy ngàn năm qua.
Đến thăm thú sân chim U Minh, du khách ngạc nhiên và vô cùng thú vị khi nhìn thấy những con ngỗng trời có đôi cánh đồ sộ hàng sải tay, nặng bảy tám kí, đậu oằn cả những cành cây lớn, những con giang sen cao lêu nghêu, chàng bè cổ quái, mỏ to bằng cổ tay người lớn. Nhiều loài cò, điên điển, cồng cộc, le le, ó biển,… quy tụ về đây thành đàn, đẻ trứng, sinh con, sinh cháu, làm cho họ hàng nhà chim ngày một đông đúc, đàn đàn lũ lũ không kể xiết.
Những vỉa than bùn dày từ 2-5 m là kho vàng đen có trữ lượng hàng tỉ tấn mà rừng u Minh đã và đang làm giàu cho quê hương xứ sở.
Sau ngày 30.4.1975, u Minh được đầu tư và khai phá. Giao thông thủy bộ được mở mang. Nhiều thị tứ, làng mạc nối tiếp mọc lên theo bờ kênh rạch, sông ngòi. Cảnh quan ngày một thay đổi to lớn.
Rừng u Minh là một vùng đất giàu có với bao tiềm năng kì diệu, U Minh hứa hẹn. U Minh đang vẫy tay đón chờ những bàn tay, khối óc và lòng dũng cảm của tuổi trẻ chúng ta.
Thuyết minh một danh lam thắng cảnh giàu tiềm năng - mẫu 4
Vùng đất Yên Thành từ xưa tới nay vốn được coi là chốn nhiều danh thắng, cảnh quan, bởi thế núi, dáng sông đã tạo nên một vùng đất nhiều truyền thuyết. Trải qua năm tháng, miền đất này còn tiềm ẩn những nét cổ xưa thú vị cho du khách mỗi khi tìm về.
Khu du lịch tâm linh Rú Gám là một danh sơn nổi tiếng từ xa xưa và trở thành biểu tượng của quê hương Yên Thành. Thời Tiền Lê, vùng đất này cư dân quần tụ đông đúc, Lê Long Ngân, con thứ 8 của vua Lê Đại Hành đã chọn vùng đất phía Tây Rú Gám để thành lập lỵ sở Đông Thành… Rú Gám hiện có gần 150 ha thuộc rừng nguyên sinh đang được bảo tồn, có thảm thực vật đa dạng chung sống phân tầng rõ nét.
Trong không gian hùng vĩ, thơ mộng với sông Dinh chạy quanh co bên những ngọn đồi, chùa Gám (Chí Linh tự) hiện ra với kiến trúc cổ kính, điêu khắc hết sức tinh xảo. Hiện nay, UBND tỉnh đã cho phép khôi phục hoạt động Phật giáo tại chùa Gám, đồng thời xây dựng nơi đây một thiền viện, phái Trúc Lâm với quy mô lớn của vùng. Dự án có tổng diện tích quy hoạch xây dựng 316,575 ha thuộc địa phận 2 xã Xuân Thành và Tăng Thành, bao gồm 5 khu vực chính: Khu di tích gốc được bố trí tại chùa Chí Linh (Xuân Thành) thờ các vị thần đã có công bảo quốc hộ dân; thờ Phật và Chư vị Bồ tát; Khu tâm linh – lễ hội ở rú Gám; Khu đền Bạch Y (xã Tăng Thành); Khu nghĩa trang và nhà thờ các anh hùng liệt sỹ.
Hàng năm, vào dịp Lễ hội đền – chùa Gám được tổ chức từ ngày 14-16/2 (âm lịch) có hàng vạn khách thập phương thành kính tìm đến. Mới đây, vào dịp tháng Tám, tổ chức Jica (Nhật Bản) đã có chuyến đi về Yên Thành để khảo sát để hướng tới đầu tư cho một số loại hình du lịch đặc trưng. Được thưởng thức trích đoạn vở tuồng "Trưng Trắc, Trưng Nhị" ngay tại sân chùa Gám, cả đoàn đã tỏ ra rất mến mộ các diễn viên và vở tuồng cổ diễn ra trong một không gian cổ.
Yên Thành đã được biết đến từ lâu đời là một vùng đất cổ. Từ thời Tiền Lê, thời Lý, nhiều cuộc di dân, khai hoang về miền đất này đã được đẩy mạnh, lập nên những hương ấp, xóm làng trù phú. Đến thời Trần, đã hình thành nên những cánh đồng màu mỡ, phì nhiêu. Xưa kia, Yên Thành còn được chọn làm lỵ sở của đất Hoan Châu với nhiều nét văn hóa đặc sắc. Con cháu đời sau cứ thế kế thừa và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Bởi thế, thật thú vị khi chúng ta về “vùng lúa nước đặc trưng” này, bắt gặp cả một miền quê hát chèo ở xã Lăng Thành. Nơi đây, từ các cụ già đến các bạn trẻ đều có thể hát chèo và thể hiện rất nhuần nhị, thấm đẫm một nét văn hóa chèo trên xứ Nghệ.
Bên cạnh đó, nhiều lễ hội truyền thống có quy mô cấp huyện cũng đã được phục hồi như Lễ hội đền Phúc Hoàng, Lễ hội đền chùa Gám, đền Cả (Nhân Thành), Lễ hội Đại Điển – đình Mõ (Hậu Thành), đền Cả (Hoa Thành)… Đất Yên Thành từ xưa đến nay còn là vùng đất văn hoá, nổi tiếng hiếu học, chính những tên đất, tên làng từ lâu đã được nhân dân hình tượng hoá thể hiện khát vọng vươn tới đỗ đạt khoa bảng, với triết lý “học để biết, biết để làm người” điều đó lại được chắt lọc chưng cất qua bao thế hệ trở thành truyền thống hiếu học và tôn trọng nhân tài của người dân Yên Thành ngày nay.
Trên địa bàn huyện, khu hồ đập Vệ Vừng đã trở thành một địa chỉ ưa thích cho du khách tìm về. Ngoài việc điều hòa khí hậu cho cả vùng miền Tây Yên Thành, cung cấp nước tưới cho trên 2.000 ha lúa của các xã Kim Thành, Quang Thành, Phúc Thành, Hoa Thành, Văn Thành… đến với Vệ Vừng, du khách được tận hưởng cảm giác bồng bềnh cùng du thuyền, ngắm cảnh, leo núi, câu cá đắm mình trong làn nước ngọt trong lành, thưởng thức nhiều món cá tôm tươi rói và đắm mình cùng những câu hò, điệu ví. Nơi đây còn có nhiều những thắng cảnh thiên nhiên, công trình kinh tế phục vụ đời sống con người, nằm cạnh các khu văn hóa như chùa Gám, chùa Bảo Lâm, chùa Non Nước, nhà thờ đá Bảo Nham… cạnh đó còn là những di tích lịch sử nổi tiếng như: Khu lưu niệm Bác Hồ về thăm Vĩnh Thành, Nhà lưu niệm đồng chí Phan Đăng Lưu (Hoa Thành)… Điệp trùng những di tích – danh thắng ấy trên vùng quê lúa đã đi vào truyền thuyết "Nghệ Yên Thành, Thanh Nông Cống" sẽ là những điểm du lịch tham quan, vãn cảnh, nghiên cứu và học tập đầy hấp dẫn.
Huyện Yên Thành có trên 200 di tích – danh thắng đã được lập danh mục quản lý, trong đó có 21 di tích được công nhận di tích quốc gia, 33 di tích xếp hạng cấp tỉnh, là huyện có nhiều di tích được công nhận nhất tỉnh. Yên Thành còn là vùng đất giàu truyền thống khoa bảng, văn hiến với 22 vị đại khoa mà tiêu biểu là trạng nguyên Bạch Liêu – ông tổ khai khoa của xứ Nghệ. Nơi đây còn là một địa danh cách mạng lâu đời, nơi có căn cứ địa của phong trào Cần Vương chống Pháp do cụ Nguyễn Xuân Ôn, Lê Doãn Nhã lãnh đạo, là địa chỉ đỏ của phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh 1930 – 1931… Đó là niềm tự hào mà Đảng bộ, nhân dân của huyện Yên Thành đang ra sức phát huy, để những giá trị đó trường tồn, đem đến những giá trị tinh thần, vật chất trong giai đoạn mới ".
Thuyết minh một danh lam thắng cảnh giàu tiềm năng - mẫu 5
Cao Phong có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, trù phú với nhiều danh thắng chứa đựng những huyền thoại đã đi vào lịch sử. Nơi đây còn lưu giữ những nét đẹp truyền thống trong nếp sống, sinh hoạt, kiến trúc nhà ở của cộng đồng người Mường đã và đang hứa hẹn là điểm đến hấp dẫn khách du lịch, góp phần thúc đẩy ngành công nghiệp không khói của huyện.
Nói đến Cao Phong, người ta thường nghĩ ngay đến một trong bốn vùng Mường cổ nổi tiếng của tỉnh: nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, tứ Động. Mường Thàng từ lâu được biết là vùng đất giàu bản sắc văn hóa truyền thống. Cao Phong có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, trù phú với nhiều danh thắng chứa đựng những huyền thoại đã đi vào lịch sử. Nơi đây còn lưu giữ những nét đẹp truyền thống trong nếp sống, sinh hoạt, kiến trúc nhà ở của cộng đồng người Mường đã và đang hứa hẹn là điểm đến hấp dẫn khách du lịch, góp phần thúc đẩy ngành công nghiệp không khói của huyện.
Cao Phong là mảnh đất giàu tiềm năng du lịch với những địa điểm từ lâu đã hấp dẫn khách du lịch trong nước và quốc tế như bản du lịch Giang Mỗ (xã Bình Thanh). Bản có hơn 100 nóc nhà sàn truyền thống còn giữ nguyên bản sắc từ nhà cửa đến nếp sinh hoạt của người Mường. Cũng trên địa bàn xóm Mỗ, du khách có thể đến thăm di tích lịch sử chiến công diệt xe tăng của Anh hùng Cù Chính Lan, nơi có Tượng đài khắc họa hình tượng người anh hùng mưu trí, quả cảm đánh xe tăng trên đường số 6 gắn liền với chiến thắng oanh liệt của quân và dân ta trong Chiến dịch Hòa Bình lịch sử. Vào mùa xuân, đến với Cao Phong, du khách thường đến với các địa điểm du lịch tâm linh như đền chúa thác Bờ trong chuỗi du lịch lòng hồ Hòa Bình, hàng năm thu hút hàng trăm nghìn lượt khách đến tham quan và đi lễ. Rời chúa thác Bờ, chúng ta đến với chùa Khánh (xã Yên Thượng). Đây là điểm du lịch văn hóa tâm linh thu hút đông đảo du khách thập phương vào dịp đầu năm. Hiện nay, huyện đang tiến hành đầu tư xây dựng chùa Quèn Ang ở xã Tân Phong, di tích lịch sử gắn với sự tích “Vườn hoa núi Cối” – một tích truyện nằm trong phần mo sử thi mo Mường Hòa Bình, một câu chuyện tình được thầy mo kể cho người đã khuất trong 12 đêm trước khi về Mường Trời. Đồng chí Bùi Văn Tín, Chủ tịch UBND xã Tân Phong phấn khởi cho biết: Hiện nay, công trình đang được gấp rút hoàn thành. Khi đưa vào sử dụng, chùa sẽ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tâm linh của bà con trong và ngoài xã. Đây cũng là địa bàn để huyện phục dựng lễ hội Khai hạ đầu năm của người Mường. Thời gian tới, huyện sẽ tiếp tục đầu tư xây dựng ngôi chùa 9 tháp với diện tích 400 m2 trên đỉnh núi khu vực có sự tích “Vườn hoa núi Cối”. Quần thể du lịch khi đưa vào sử dụng cũng góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân.
Cùng với những khu du lịch trên, đến Cao Phong, du khách sẽ thấy ngay vùng đất trù phú với những vườn cam, mía trải dài như một thảo nguyên xanh mướt. Đây cũng là tiềm lực để huyện định hướng phát triển du lịch sinh thái. Với tiềm năng của nhiều loại hình du lịch như sinh thái, du lịch văn hóa tâm linh, thăm quan các điểm di tích lịch sử, gần đây có thêm loại hình du lịch khám phá hang động. Những năm qua, huyện đã ban hành nghị quyết về phát triển du lịch, xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển du lịch trên địa bàn huyện, từng bước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch. Theo đó, các tuyến, cụm, điểm du lịch được quy hoạch định hướng như tuyến du lịch Bình Thanh – Thung Nai – lòng hồ sông Đà với các điểm làng cổ dân tộc (Mường, Dao) thăm làng nghề truyền thống (dệt thổ cẩm); thăm quan khu di tích lịch sử diệt xe tăng của Anh hùng Cù Chính Lan, đền Bờ, du lịch sinh thái hồ Hòa Bình; tuyến du lịch Tân Phong – Dũng Phong – Yên Lập – Yên Thượng thăm di tích lịch sử văn hóa chùa Quèn Ang, “Vườn hoa núi Cối”, chùa Khánh, du lịch bản Mường xã Yên Thượng, Yên Lập; tuyến thị trấn Cao Phong – Xuân Phong với du lịch sinh thái miệt vườn, du lịch hồ Cạn Thượng, thăm làng dân tộc Mường xóm Cạn, Mừng (xã Xuân Phong). Bên cạnh đó, huyện cũng chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch khác như xây dựng các tuyến đường giao thông; quản lý, khai thác tốt các loại hình vận tải đường sông, đường bộ; phát triển hệ thống dịch vụ như nhà nghỉ, khách sạn. Đặc biệt, hiện nay, quần thể hang động núi Đầu Rồng tại khu 3, thị trấn Cao Phong được Bộ VH-TT&DL cấp bằng di tích cấp quốc gia năm 2012 là tâm điểm được huyện quan tâm đầu tư. Với địa bàn thuận lợi cách QL 6 khoảng 500 m, dãy núi này dài hơn 1 km, độ cao khoảng 200 m so với chân núi. Trong dãy núi có nhiều hang động đẹp liên kết với nhau tạo thành quần thể như Hoa Sơn thạch động, động Không Đáy, Nhãn Long Sơn động, Phong Sơn động, hang Nước, động Thanh Thủy. Mỗi hang động là kỳ quan tuyệt vời của tạo hoá ban tặng. Bước đầu, huyện đầu tư hạ tầng sơ bộ bảo vệ danh lam thắng cảnh khu di tích tổng giá trị gần 3 tỷ đồng. Chuẩn bị khởi công xây dựng đền Thượng Bồng Lai tại chân núi Đầu Rồng với diện tích 4.000 m2, tổng dự toán 33 tỷ đồng.
Cùng với đó, huyện tích cực triển khai các chương trình phát triển du lịch như tuyên truyền, quảng bá du lịch, tham gia các hội chợ, đẩy mạnh xúc tiến – thương mại – du lịch, khôi phục các lễ hội của đồng bào dân tộc như lễ hội khai hạ của đồng bào Mường, tết nhảy của người Dao, khôi phục sản phẩm truyền thống như dệt thổ cẩm nhằm phát huy và bảo tồn bản sắc văn hóa của vùng, đồng thời hấp dẫn khách du lịch.