Phân tích diễn biến tâm trạng của Lão Hạc khi bán Cậu Vàng năm 2023
Phân tích diễn biến tâm trạng của Lão Hạc khi bán Cậu Vàng năm 2023
Bài văn Phân tích diễn biến tâm trạng của Lão Hạc khi bán Cậu Vàng gồm dàn ý chi tiết, 5 bài văn phân tích mẫu được tuyển chọn từ các bài văn phân tích đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài kiểm tra, bài thi môn Ngữ văn 8.
Đề bài: Phân tích diễn biến tâm trạng Lão Hạc xung quanh việc bán cậu Vàng.
A/ Dàn ý chi tiết
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Khái quát nội dung tác phẩm.
- Dẫn dắt vấn đề.
II. Thân bài
* Kể tóm tắt câu chuyện trước khi bán chó.
* Phân tích tâm trạng
- Trước khi bán chó lão suy tính, đắn đo coi đó là một việc hệ trọng.
- Sau khi bán chó thì lão mếu máo, đôi mắt ầng ậc nước, mặt co rúm lại, đầu nghẹo sang một bên, lão khóc hu hu...Lão dằn vặt đau đớn đến tận cùng.
- Qua đoạn trích thấy Lão Hạc là người giàu tình cảm, nghèo nàn, bần khổ, sau khi bán chó thì cắn dứt lương tâm.
* Nghệ thuật
- Ngôi kể thứ nhất tự nhiên, linh hoạt
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật
- Ngôn ngữ đối thoại, độc thoại…
III. Kết bài:
- Nêu cảm nghĩ của bản thân.
B/ Sơ đồ tư duy
C/ Bài văn mẫu
Phân tích diễn biến tâm trạng của Lão Hạc khi bán Cậu Vàng – mẫu 1
Nam Cao, tượng đài văn chương hiện thực trước Cách mạng, một trong những cây bút tiêu biểu nhất thế kỷ 20 với thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Xuôi theo dòng chảy văn học đương thời, những tác phẩm mang giá trị nhân đạo, phản ánh hiện thực cao như "Tắt đèn", "Chí Phèo", "Lão Hạc" ra đời năm 1943 đã vạch trần một cách khéo léo hiện trạng xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, một xã hội tàn ác, chà đạp con người đến cùng cực. Trong đó, diễn biến tâm trạng nhân vật Lão Hạc trước và sau khi bán chó được đánh giá là chi tiết đắt giá và gây ám ảnh cho người đọc.
Lão Hạc là một nông dân già nua, nghèo đói, sớm góa vợ, con trai đi đồn điền cao su. Lão có một con chó là kỉ vật người con trai để lại trước khi đi, gọi là cậu Vàng. Lão chăm cậu Vàng như chăm con, thương nó như chính con đẻ của mình. Vì đói nghèo đến cùng cực, lão buộc phải bán cậu Vàng đi, nhưng lương tâm và tình thương con mãnh liệt đã khiến lão chọn con đường tự tử bằng bả chó. Đối với nhiều người hay ngay cả ông giáo trong làng - nhân vật "tôi" trong truyện, việc bán một con chó là một điều hết sức bình thường. Nhưng với lão Hạc, bán cậu Vàng chính là bán đi mối liên kết duy nhất giữa ông và con trai mình. Chính vì thế mà tâm trạng lão mới day dứt, khổ sở, dằn vặt. Một con vật lão thương yêu là thế, đến khi lâm vào đường cùng, lão trăn trở mãi không biết có nên bán hay không. Diễn biến tâm trạng lão Hạc xung quanh việc bán chó có cao trào, có giải quyết, khiến người đọc vừa thương cảm cho số phận nghèo đói của lão, vừa phẫn nộ trước xã hội thực dân nửa phong kiến tàn độc, thối tha.
Trước khi bán cậu Vàng, lão Hạc đối xử với nó như con, nên đứng trước sự lựa chọn bán hay không bán, lão không thể dứt khoát đưa ra quyết định của mình. Năm lần bảy lượt lão thủ thỉ với ông giáo:" Có lẽ tôi bán con chó đấy, ông giáo ạ!". Đến mức nhân vật ông giáo phải cảm thấy "đã nhàm rồi" vì nghĩ rằng lão nói "để có đấy thôi". Xét cho cùng, chẳng qua cũng chỉ là con chó, việc bán nó đi có gì khó khăn đến vậy. Qua lời tâm sự của lão, nhân vật "tôi" mới hiểu được rằng, con chó ấy do người con trai để lại trước khi bỏ đi đồn điền cao su, bặt âm vô tín mấy năm. Đến đây, người đọc mới ngộ ra rằng, phải chăng với lão, cậu Vàng chính là cậu cháu trai, là đứa trẻ mà lão cho "ăn cơm trong một cái bát", lão ăn gì cũng chia cho nó", "chửi yêu nó", "nói với nó như nói với một đứa cháu bé". Không ngờ rằng cũng đến cái ngày, lão phải chọn cách bán nó vì không thể nuôi nổi do quá nghèo. Tâm trạng vừa chua xót, vừa dằn vặt, chẳng biết bán hay nuôi. Bán thì không cam lòng, mà nuôi thì không nổi vì chẳng có tiền.
Diễn biến tâm trạng lão Hạc sau khi bán chó khiến người đọc cảm thấy đắng cay và thương tâm. Lão tìm đến ông giáo, chạy sang nhà ông báo: "Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ!", "cố làm ra vui vẻ" nhưng trông "lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước". "mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô nhau lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra...lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc". Bộ dạng thảm thương đến nhói lòng, sự hối hận, dằn vặt hóa thành những giọt nước mắt chảy trên gương mặt của lão nông tuổi đã xế chiều. Lão cảm thấy bản thân có lỗi với cậu Vàng vì "trót lừa một con chó". Nấc nghẹn trong hàng nước mắt, lão kể với ông giáo khi cậu Vàng bị bắt, tự chửi rủa, trách móc bản thân mình: "Khốn nạn... Ông giáo ơi! Nó có biết gì đâu!", "Nó thấy tôi gọi về thì chạy ngay về, vẫy đuôi mừng", "Nó cứ làm in như nó trách tôi; nó kêu ư ử, nhìn tôi như muốn bảo tôi rằng: "A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này?". Câu trách móc của cậu Vàng hay chính lão Hạc tự trách móc chính mình. Lão thương con chó, đối với nó như con để rồi cuối cùng, chính lão lại là người bán nó cho bọn buôn thịt. Lòng tự trọng và tính cách thiện lương khiến lão Hạc không thể ngưng hối hận. Trong đầu lão bây giờ chỉ quẩn quanh hình ảnh cậu Vàng với ánh mắt trách móc vì lão đã lừa nó. Tâm trạng cùng quẫn đau khổ, như người ta phải cắn răng bán đi chính đứa con đẻ của mình.
Xót thương cho cậu Vàng, lão Hạc chuyển sang xót thương cho chính số phận nghiệt ngã của bản thân. Nghe những lời an ủi của ông giáo, lão chỉ biết "chua chát" bảo:" - Ông giáo nói phải! Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hóa kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút... kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn!...". Cái suy nghĩ của một người già, một người đã gần đất xa trời nhuộm màu đau thương. Lão nghĩ về kiếp người, nghĩ về cậu Vàng, tự khuyên bảo lòng mình rằng đã hóa kiếp cho một con chó để nó được đầu thai làm người. Nhưng rồi lão nhìn lại kiếp người của mình, một kiếp người đơn côi, nghèo khổ, cô độc, một kiếp sống mòn trong xã hội đổ nát, hèn hạ. Sự chiêm nghiệm ở đây khiến độc giả buồn bã, thương cảm cho lão Hạc và cho cả những người dân nghèo vô tội phải oằn mình chịu đựng cái ách một cổ hai tròng, bị bóc lột đến tận xương tủy bởi sưu cao thuế nặng.
Diễn biến tâm trạng lão Hạc xung quanh việc bán chó đã để lại trong lòng người đọc ấn tượng về tình người, về tình thương yêu, về tấm lòng lương thiện, đáng quý. Miêu tả chi tiết xuôi theo mạch cảm xúc nhân vật, tác giả để bản thân nhân vật tự bộc lộ tính cách, qua đó gợi nhắc đến những phẩm chất tốt đẹp của con người, đồng thời phê phán hiện thực tàn ác đã đẩy con người đến bước đường cùng.
Phân tích diễn biến tâm trạng của Lão Hạc khi bán Cậu Vàng – mẫu 2
Truyện Lão Hạc được miêu tả và kể lại bằng những tâm sự của nhân vật chính và xung quanh nhân vật chính. Đó là tâm sự của Lão Hạc về con chó, về người con trai của lão, về kiếp người, về cái chết, về mảnh vườn. Đó là tâm sự của ông giáo, của vợ ông giáo, của Binh Tư về thân phận lão Hạc. Có đoạn Nam Cao tả ngoại hình nhân vật bằng những từ tượng hình rất ấn tượng, đó cũng là một gương mặt mang nỗi đau của cõi lòng quặn thắt: (cười như mếu, mắt ầng ậng nước, mặt đột nhiên co rúm lại, những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra…). Đây là một tâm sự đau nhất của một tâm hồn trong trẻo, chân thật: "Thì ra tôi già bằng này tuổi rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó”.
Sự xuất hiện của các nhân vật khác trong truyện đều không được miêu tả ngoại hình, mỗi người chỉ hiện diện bằng một tâm sự về lão Hạc và bằng một tâm sự của nhà văn về thân phận họ. Có tâm sự hoài nghi, miệt thị của Binh Tư “làm nghề ăn trộm nên vốn không ưa lão hạc bởi vì lão lương thiện quá”. Có tâm sự của người con trai lão Hạc, rất thương cha nhưng phải bỏ làng ra đi và mang trong lòng một niềm u uất.
Nhân vật ông giáo trong truyện là một mạch tâm sự có biến động, từ “dửng dưng” đến “ái ngại” “muốn ôm choàng lấy lão mà oà lên khóc” đến kính trọng.
Bàng hoàng: “Hỡi ôi lão Hạc… con người đáng kính ấy”. Sau cùng là thái độ vững tin thầm lặng, bền bỉ, sáng ngời vào nhân cách của lão Hạc. Lão Hạc kết thúc đời mình trong khung cảnh “nhốn nháo”, “chẳng ai hiểu” của dư luận, nhưng câu chuyện lại truyền đi một thông điệp cuối cùng, thông thiết, son sắt như một lời thề: “Lão Hạc ơi! Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt… Đến khi con trai lão về, tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo hắn: “Đây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn”.
Cốt truyện lão Hạc thể hiện trực tiếp tấm lòng của nhà văn về con người, một quan niệm nghệ thuật được thể hiện thành một mạch tâm sự rung động của các mạch tâm sự, để hiện ra một tâm thế của người nông dân.
Lão Hạc là chân dung của một tâm hồn lão nông Việt Nam “đáng kính”, nói theo ngôn ngữ của nhân vật ông giáo trong truyện. Phần đáng kính ấy là cõi lòng của lão, một khối tâm sự nhức nhối bởi sự vò xé, xô đẩy không nguôi giữa một bên là cảnh đời túng quẩn, với một bên là cõi lòng lão Hạc đôn hậu, trong sáng.
Cảm hứng nổi bật của Nam Cao trong truyện ngắn lão Hạc là khẳng định mãnh liệt về tình thương, niềm tin đối với con người. Lão Hạc tin vào đứa con của mình, lão tin vào con trai lão sẽ trở về.
Có lần lão nói một cách rất ấn tượng làm người nghe phải run lên: “Nếu kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để nó làm kiếp người… kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn!…” Lão hồn nhiên và trung thực, tự trọng, đến mức trong trẻo: “tôi già bằng này tuổi đầu rồi mà còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó”. Và ngay cả khi chết lão cũng tính toán kĩ bằng ý thức trung thực và tự trọng.
Đặc sắc của Nam Cao trong việc diễn đạt về người nông dân lao khổ là ở chỗ đó. Đây là một “dụng công” nghệ thuật của nhà văn. Con chó gắn với kỉ niệm đau buồn và dục vọng hạnh phúc của lão Hạc về đứa con, gắn với nỗi ân hận cao thượng về đức tính trung thực, về triết lý chua chát quanh kiếp người.
Truyện ngắn Lão Hạc, cao vút một niềm tin sâu sắc của Nam Cao vào con người.
Phân tích diễn biến tâm trạng của Lão Hạc khi bán Cậu Vàng – mẫu 3
"Lão Hạc” của Nam Cao ra mắt bạn đọc năm 1943. Câu chuyện về số phận thê thảm của người nông dân Việt Nam trong bối cảnh đe doạ của nạn đói và cuộc sống cùng túng đã để lại xúc động sâu xa trong lòng độc giả. Đặc biệt, tác giả đã diễn tả tập trung vào tâm trạng nhân vật chính – lão Hạc – xoay quanh việc bán chó đã giúp ta hiểu thêm tấm lòng của một người cha đáng thương, một con người có nhân cách đáng quý và một sự thực phũ phàng nói đến những cuộc đời lương thiện.
Cuộc đời của lão Hạc là một chuỗi những đau khổ và bất hạnh. Một kiếp đời chua chát và đắng cay. Vợ lão mất sớm, một mình lão “gà trống nuôi con”. Đến tuổi anh con trai lấy vợ thì nhà lão nghèo quá, nhà gái lại thách cao, nên anh con trai không lấy được vợ, phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su. Những ngày tháng xa con, lão sống trong nỗi lo âu, phiền muộn vì chưa làm tròn bổn phận của người cha. Còn gì xót xa hơn khi tuổi già gần đất xa trời, lão phải sống trong cô độc, thui thủi một mình. Lão bầu bạn với con chó vàng - kỷ vật của người con để lại. Lão yêu nó, coi nó như người thân. Nhưng sự túng quẫn ngày càng đe dọa lão. Lão phải bán "cậu Vàng" đi vì không thể lo mỗi ngày 3 hào gạo cho cả nó và lão. Sau trận bão, lão không thể kiếm ra tiền mà "tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của cháu". Ông lão nông nghèo khổ ấy cứ băn khoăn, day dứt mãi vì đã trót lừa một con chó.
Lão coi cậu Vàng như người bạn, như đứa con, như con cháu trong nhà mà đối xử hết mực yêu thương Lão gọi nó là cậu Vàng như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự Thỉnh thoảng không có việc gì làm, lão lại bắt rận cho nó hay đem nó ra ao tắm Cho nó ăn cơm trong một cái bát như một nhà giàu Lão cứ nhắm vài miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ Rồi lão chửi yêu nó, lão nói với nó như nói với đứa cháu bé về bố nó. Chính vì tình yêu thương ấy mà khi bán cậu Vàng thì trong lão diễn ra một sự dằn vặt đau khổ, day dứt: Lão kể lại cho ông giáo việc bán “cậu Vàng” với tâm trạng vô cùng đau đớn, đến nỗi ông giáo thương lão quá “muốn ôm chầm lấy lão mà òa lên khóc”. Khi nhắc đến việc cậu Vàng bị lừa rồi bị bắt, lão Hạc không còn nén nỗi đau đớn cứ dội lên: “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra... Lão hu hu khóc”. Lão Hạc đau đớn đến không phải chỉ vì quá thương con chó, mà còn vì lão không thể tha thứ cho mình vì đã nỡ lừa con chó trung thành của lão. Sau khi bán chó, lão sắp xếp cho chính cuộc đời mình sau đó: Lão gửi nhờ mảnh vườn cho ông giáo trông coi đến khi nào con trai lão về thì nó có cái để làm vườn. Lão sợ khi lão mất rồi nhiều người lại dòm ngó Lão đem số tiền bán chó và nhịn ăn có được mang sang nhà ông giáo để nhờ vả ma chay cho mình. Suy cho cùng, việc lão tìm đến cái chết một cách tự nguyện cũng vì thương con lão. Nên nhớ, khi đó lão Hạc còn ba mươi đồng bạc (một số tiền khá lớn thời bấy giờ) và mảnh vườn ba sào. Nhưng lão nhất quyết không tiêu phạm vào cái vốn liếng cuối cùng mà lão đã dành cho con trai lão. Lão Hạc cũng là người đầy khí tiết, có lòng tự trọng. Thà chịu đói, chịu chết chứ không nhờ người khác. Với cái chết đau đớn dữ dội mà lão Hạc tự chọn, lão Hạc đã thể hiện một khí tiết cao quý, có ý thức nhân phẩm rất cao. Lão Hạc là con người “đói cho sạch, rách cho thơm”, “chết vinh hơn sống nhục”, là con người coi trọng nhân phẩm hơn cả cuộc sống. Tình cảnh túng quẫn, đói khổ ngày càng đe dọa lão Hạc và đấy lão vào con đường chết, tìm một lối thoát cuối cùng. Đủ thấy số phận bi thảm của những người nông dân nghèo khổ sở những năm đen tối trước Cách mạng tháng Tám bấy giờ.
Những trang viết về tấm lòng trong sạch, lương thiện của người nông dân và số phận bi thảm của họ là những trang viết thấm đượm tấm lòng nhân đạo thống thiết của nhà văn với con người và niềm thiện cảm sâu sắc của nhà văn với người nông dân. Với một “Lão Hạc” xuất sắc đến vô cùng, Nam Cao đã khẳng định được tên tuổi của mình. Ông đã “khơi được những nguồn chưa ai khơi” và ghi lại trong lòng độc giả những tình cảm yêu mến.
Phân tích diễn biến tâm trạng của Lão Hạc khi bán Cậu Vàng – mẫu 4
Nhà văn Nam Cao xứng đáng là một nhà văn hiện thực tài ba trong nền văn học Việt Nam ta. Có biết bao nhiêu nhà văn nói về nỗi khổ của nhân dân ta trong thời kháng chiến chống Pháp, cũng có biết bao nhiêu số phận con người nông dân khổ sở vì sưu cao thuế nặng như Chị Dậu thế nhưng Nam Cao vẫn góp vào nền văn học nước nhà một số phận người nông dân nghèo không có người thân chỉ có mỗi con chó làm bầu làm bạn. Đó chính là Lão Hạc. Đặc biệt trong truyện ấn tượng nhất đoạn diễn biến tâm trạng Lão Hạc khi bán con chó Vàng.
Lão Hạc là một người nông dân cao tuổi thế nhưng lại cô độc chỉ có một mình. Vợ ông thì đã mất có một đứa con trai thì vì quá nghèo không có đủ tiền cho con cưới vợ cho nên anh con trai thất tình chán đời bỏ vào nam làm đồn điền cao su rồi biệt vô âm tín luôn. Sống cô độc một mình chỉ có những chuyện lớn hay những khúc mắc trong lòng thì ông lão lại sang nhà ông giáo. Tuy vậy người làm bạn với ông thường xuyên thì chỉ có con chó mà ông gọi nó bằng cái tên thân thiết là cậu Vàng. Ông cứ sống như thế và nuôi hi vọng con trai mình sẽ trở về. Thế rồi cuộc sống và những dồn ép của xã hội không cho ông có được cậu vàng bên cạnh nữa. Ông quyết định bán nó đi, nhưng khi bán nó đi thì lương tâm ông day dứt và trong đầu ông luôn xuất hiện những hình ảnh của cậu Vàng.
Trước khi có ý định bán cậu Vàng ông nhìn nó cũng đủ thấy nó sợ ông sẽ bán nó đi. Nó khôn lắm biết chủ không có gì ăn nên khi ông cho nó ăn cái gì thì nó đều ăn và quẫy đuôi như cảm ơn. Thế nhưng đến ông cũng không ngờ ông phải bán nó đi. Cuộc sống đã dồn lão phải bán nó và nhận lấy cái chết về mình. Ông từng hứa với nó là không bán nó nhưng bây giờ ông lại làm sai lời hứa của mình chính vì thế mà ông thấy day dứt. Không những thế cậu vàng còn là một người bạn với ông mất đi người bạn ấy thì ông làm gì con ai mà bầu bạn nữa.
Lão Hạc chạy sang nhà ông giáo mà khóc lóc chửi bản thân mình. Nhà văn Nam Cao như thấu hiểu được cảm giác đó cho nên đã viết rất xúc động đoạn văn miêu tả tâm lý Lão Hạc khóc mếu khi bán cậu Vàng. “cố làm ra vui vẻ nhưng trông lão cười như mếu và đồi mắt lão ầng ậng nước”, mặt lão đột nhiên co rúm lại.Những vết nhăn xô nhau lại với nhau,ép cho nước mắt chảy ra…lão mếu như con nít.Lão hu hu khóc”.Bộ dạng lão Hạc trông thật là tội nghiệp.Những giọt nước mắt khó khăn tưởng như không thể có ở cái tuổi gần đất xa trời của lão đã rơi chỉ vì thấy mình có lỗi với chú chó Vàng.Lão khóc như đứa con nít giận dỗi vì bị ai đe nẹt và quát mắng”. Như vậy có thể nói ông Lão yêu thương con chó của mình lắm. Đối với ông thì cậu Vàng giống như một con người chứ không phải là một con chó nữa.
Vậy là ông đã mất đi người bạn duy nhất ấy. Ông còn văng những câu chửi thề để chửi chính bản thân mình “ khốn nạn... Ông giáo ơi… nó có biết gì đâu”. Điều đó cho thấy ông Lão đang rất ân hận và day dứt vì việc làm của mình. Ông là một người có lòng tự trọng và ông thấy việc ông nói dối một con chó là không nên. Nhìn thấy ánh mắt của cậu Vàng khi bị bán ông lão như có cảm giác nó trong ánh mắt nó nhìn ông không còn yêu quý như xưa mà như là đang oán hận trách móc: “A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão đối xử tôi thế này à”.
Từ đau đớn thương cậu Vàng đến day dứt lương tâm Lão Hạc chuyển đến sự chua chát trong cuộc đời của mình. Ông nói để hóa kiếp cho con chó ấy nhưng qua đó ta thấy được kiếp người trong xã hội ấy chẳng khác nào kiếp chó. Và dù sao thì cũng phải chết.
Qua đây, ta thấy được tâm trạng của Lão Hạc khi bán cậu Vàng. Đối với chúng ta nhiều khi bán đi một con chó cũng thấy rất bình thường nhưng đối với người dân ấy chỉ có một mình với con chó ấy thì lại rất buồn. Qua đó, ta cũng thấy được phẩm chất đáng quý của người nông dân. Đó là tự trọng giàu lòng thương yêu.
Phân tích diễn biến tâm trạng của Lão Hạc khi bán Cậu Vàng – mẫu 5
Nam Cao là một nhà văn xuất sắc chuyên viết truyện ngắn trong nền văn học Việt Nam. Các tác phẩm của ông chủ yếu nói lên hoàn cảnh, số phận nghèo khó, khổ cực của người nông dân thời xưa. Một trong số đó là truyện ngắn “Lão Hạc”, tác phẩm gắn liền với tên tuổi của ông. Câu chuyện đã khắc họa thành công nhân vật lão Hạc, đại diện cho tầng lớp nông dân bần hàn nhất thời bấy giờ, với những nét đẹp và tình thương yêu con người, động vật sâu sắc. Điều này được nhà văn thể hiện rõ nhất qua đoạn trích lão Hạc phải bán đi con chó của mình để duy trì sự sống.
Lão Hạc là một ông lão nghèo khổ, sống cô độc một mình, vợ chết, con tha hương lên đồn điền cao su rồi cũng bặt vô âm tín. Ông chỉ quanh quẩn ở nhà, làm những việc lặt vặt, có một con chó mà ông yêu mến đặt tên cho là cậu Vàng. Kể từ khi người con trai đi, lão vô cùng buồn bã, chỉ có con chó ở bên bầu bạn, tâm sự. Ông rất yêu quý nó, coi nó như con mình vậy. Mỗi khi ngồi một mình, lão Hạc lại trò chuyện với Vàng, ông mắng yêu nó, rồi lại vỗ về dỗ dành nó như một đứa con nít “ à không! à không! Không giết cậu Vàng đâu nhỉ!… Cậu Vàng của ông
ngoan lắm! Ông không cho giết… Ông để cậu Vàng ông nuôi…” Đối với lão, Vàng không chỉ là một người bạn, mà đó còn là niềm hy vọng, hy vọng một ngày nào đó đứa con trai sẽ trở về với ông. Trong đầu ông chưa có khi nào có ý định là sẽ bán nó với bất cứ giá nào, dù rằng mình có nghèo khổ như thế nào đi chăng nữa.
Ấy vậy mà đời chẳng theo ý ta muốn. Lão Hạc bị ốm, một trận ốm nặng đúng hai tháng mười tám ngày, bao nhiêu tiền của ông tích góp cũng dần tan biến. Khi khỏe lại, ông cũng chả có công việc gì làm, làm vải phải bỏ, gió bão ập tới, hoa màu bị phá sạch. Thế mà ngày nào lão cùng con chó cũng ăn hết ba hào gạo gạo. Ông sợ rằng nếu cho Vàng ăn ít đi, nó trở nên gầy rộc bán sẽ chẳng được giá, phí hoài công nuôi suốt từ trước đến nay. Nhưng rồi, khi mọi thứ quá khó khăn, vượt khỏi tầm kiểm soát, cuộc sống nghèo khổ cộng thêm lời khuyên của ông giáo mà lão Hạc đã quyết định bán cậu Vàng đi trong sự đau khổ và uất ức.
Sáng hôm đó, lão chạy qua nhà ông giáo báo tin rằng đã bán đi cậu Vàng. Lão cố tỏ ra vui vẻ vì đã bán được chó và có chút tiền, nhưng thực sự lão đang rất đau khổ. Khi được ông giáo hỏi thêm, từ vui vẻ thì mặt lão Hạc bỗng co rúm lại và bắt đầu khóc. Lão trách bản thân mình quá tệ bạc, đã quá nhẫn tâm và độc ác. Trong tâm trí lão lúc ấy chỉ có sự day dứt và dằn vặt khi đã đi lừa một con chó. Lão bán chó đi tức là lão đã bán đi người bạn duy nhất của mình, con người vốn đã cô độc ấy nay lại càng cô độc hơn. Số tiền mà lão tích góp được cộng thêm tiền bán chó, lão đem gửi cả cho ông giáo nhờ ông trông coi hộ mảnh vườn và lo thêm tang lễ của lão sau này. Kể từ ấy, lão sống trong sự đau khổ và đói kém, có gì ăn lấy. Thế rồi, đến cuối cùng, khi thức ăn đã cạn kiệt, lão đã chọn cái chết để giải thoát tất cả. Ông muốn thoát khỏi cái thực trạng khổ cực, day dứt này để hóa kiếp sang một cuộc sống mới với những hy vọng tốt hơn.
Bằng giọng văn tinh tế, từ ngữ giản dị nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu xa, Nam Cao đã khắc họa thành công nhân vật lão Hạc với những đức tính cao đẹp, tuy nghèo khổ nhưng vẫn quyết không làm chuyện xấu hại người. Qua đây, tác giả cũng đã thể hiện được một xã hội bất công và đầy những uất ức thời bấy giờ.