X

500 bài văn mẫu lớp 8

Phân tích đoạn trích Hai cây phong năm 2023


Phân tích đoạn trích Hai cây phong năm 2023

Bài văn Phân tích đoạn trích Hai cây phong gồm dàn ý chi tiết, 5 bài văn phân tích mẫu được tuyển chọn từ các bài văn phân tích đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài kiểm tra, bài thi môn Ngữ văn 8.

Phân tích đoạn trích Hai cây phong năm 2023 - Văn mẫu lớp 8

Đề bài: Phân tích đoạn trích "Hai cây phong" của Ai-ma-top.

A/ Dàn ý chi tiết

I. Mở bài: Khái quát về tác giả, tác phẩm

- Ông là nhà văn Cư- rơ-gư-xtan, ông được trao giải thưởng với 3 tác phẩm : Người thầy đầu tiên; Cây phong non trùm khăn đỏ; Mắt lạc đà

- Văn bản Hai cây phong là phần đầu của truyện Người thầy đầu tiên, đây là đoạn trích ca ngợi tình cảm thiêng liêng, đó là tình yêu quê hương xứ sở, đồng thời là bài ca về người thầy chân chính

II. Thân bài: phân tích Hai cây phong

* Hình ảnh hai cây phong

- Hai cây phong nằm ở trên đồi như ngon hải đăng trên núi

- Ai đến làng cũng đều thấy chúng trước tiên ⇒ Là dấu hiệu để nhận ra làng

⇒ Phép so sánh chỉ giá trị tín nhiệm của hai cây phong. Khẳng định giá trị không thể thiếu đối với những người đi xa, thể hiện niềm tự hào về hai cây phong

- Hai cây phong ấy cũng có tiếng nói riêng, tâm hồn riêng: tiếng rì rào nhiều cung bậc khác nhau

- Hai cây phong gắn bó với sự sống, với con người: nơi giúp bọn trẻ thấy một “ thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng”, nhìn ra vẻ đẹp mới và khơi gợi khát vọng khám phá miền đất lạ.

- Hai cây phong là nhân chứng cho hành động và tình cảm của thầy Đuy-sen.

- Cảnh trèo lên hai cây phong cho ta thấy đây là nơi hội tụ niềm vui, mở rộng chân trời hiểu biết, nơi khắc ghi những biến cố của làng

⇒ Bằng cách kể, miêu tả, nhân hóa so sánh cho thấy sức sống mãnh liệt của hai cây phong, biểu tượng cho con người thảo nguyên

* Hình ảnh con người

- Nhân vật “tôi” có tình cảm đặc biệt, yêu mến hai cây phong

- Có một nỗi nhớ mãnh liệt với hai cây phong

- Có trí tưởng tượng rất phong phú, tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên và làng quê

⇒ Con người đã khắc họa lên một bức tranh thiên nhiên đậm chất hội họa được khám phá từ điểm nhìn trên hai cây phong- là những kỉ niệm tuổi thơ cho tình yêu yêu quê hương của những đứa trẻ

- Hai cây phong gắn với câu chuyện về thầy Đuyn-sen đã vun trồng ước mơ hi vọng cho những người học trò nghèo: Thầy đã trồng 2 cây phong với hi vọng các thế hệ trẻ được học hành, có khát vọng lớn và trở thành người hữu ích

III. Kết bài

- Khái quát giá trị nội dung làm nên thành công của đoạn trích

- Hai cây phong là biểu tượng của tình yêu quê hương sâu nặng gắn liền với những kỉ niệm tuổi thơ đẹp đẽ của người họa sĩ làng Ku- ku-rêu.

B/ Sơ đồ tư duy

Phân tích đoạn trích Hai cây phong năm 2023

C/ Bài văn mẫu

Phân tích đoạn trích Hai cây phong – mẫu 1

Trong số các nhà văn của đất nước Liên Xô cũ, có lẽ Tsin-ghi-dơ Ai-má-tốp là người gần gũi với người đọc Việt Nam nhất. Truyện của ông, từ Ja-mi-li-a,..., Vĩnh biệt Gưn-xa-rư, đến Ngày dài hơn thế kỷ đều có bóng dáng của quê hương Cư-rơ-gư-xtan, đều phản ánh phong tục tập quán, đấu tranh cho cuộc sống tiến bộ, đạo đức và tình cảm tốt đẹp của con người... Một trong những tình cảm khiến truyện của Ai-ma-tốp gần gũi với người đọc Việt Nam có lẽ là tình cảm thầy trò mà truyện ngắn Người thầy đầu tiên là truyện tiêu biểu.

Truyện ghi lại hoạt động của một đoàn viên thanh niên chấp hành sự điều động của tổ chức, dù học lực chưa được là bao, về xây dựng một ngôi trường ở nơi người dân chưa hề biết đến con chữ. Cô bé An-tư-nai mồ côi sống trong gia đình chú thím ở làng Ku-ku-rêu, chẳng được học hành, và phải chịu sự giám sát, sai khiến hà khắc của bà thím. Đuy-sen được Đoàn Thanh niên Cộng sản cử về làng để mở trường, đã kịp thời cứu giúp, cho em đến trường học. Một hôm, Đuy-sen mang về trường hai cây phong non và bảo em: “Hai cây phong này thầy mang về cho em đây. Chúng ta sẽ cùng trồng. Và trong khi chúng lớn lên, ngày một thêm sức sống, em sẽ trưởng thành, em sẽ là một người tốt... Em bây giờ trẻ măng như một thân cây non, như đôi cây phong nhỏ này...”.

Bà thím ác nghiệt ép gả bán An-tư-nai làm vợ lẽ cho người ta. Một lần nữa, An-tư-nai được thầy Đuy-sen giải thoát, được lên tỉnh học, rồi đến học tiếp ở Mát-xcơ-va, sau trở thành nữ viện sĩ An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-va. Còn thầy Đuy-sen, bấy giờ đã già, làm nghề đưa thư...

Đoạn văn mà chúng ta phân tích nằm ở phần đầu của truyện ngắn. Phần truyện này được viết bằng hai mạch văn lồng ghép vào nhau. Một mạch văn mà nhân vật kể là “tôi” - nhân danh bản thân của mình giới thiệu ngôi làng, vị trí của hai cây phong và nêu cảm hiểu của mình về chúng. Mạch văn khác nhân danh “chúng tôi” - do nhân vật “tôi” nhớ và kể lại như là hồi ức về một quãng đời đã từng sống cùng hai cây phong ở trong làng.

Sau khi giới thiệu vị trí và đặc tính về địa lý của ngôi làng Ku-ku-rêu, nhân vật “tôi”, giờ đã là họa sĩ, giới thiệu hai cây phong: “Phía trên làng tôi, giữa một ngọn đồi, có hai cây phong lân. Tôi biết chúng từ thuở bắt đầu biết mình”. Ấy là giới thiệu vị trí của hai cây phong, và mốc thời gian mà nhân vật “tôi” nhận biết được hai cây phong ấy. Thật thú vị khi đọc câu văn “Tôi biết chúng từ thuở bắt đầu biết mình”. Thú vị là ở chỗ nó vừa chính xác vừa mơ hồ, đồng thời cũng là thông báo cho người đọc biết hai cây thông ấy xuất hiện ở làng trước khi nhân vật “tôi” nhận biết được sự có mặt của mình. Và nhân vật “tôi” nêu cảm nhận về vị ưí của hai cây phong lớn ấy. Đấy là một vị trí mà bất cứ ai đi từ hướng nào “cũng đều trông thấy hai cây phong đó trước tiên”, rồi so sánh chúng “nhưnhững ngọn hải đăng đặt trên núi”. Nếu biết “hải đăng” là ngọn đèn biển, thường dựng ở một mũi đất hoặc một hòn đảo để hướng dẫn tàu thuyền đi lại ngoài khơi hoặc ra vào bến cảng thì sẽ nhận ra ý nghĩa trân trọng hai cây phong của nhân vật “tôi” qua sự so sánh ấy. Nó như cây đa đầu làng đối với người Việt Nam khi sống ở nơi xa có dịp trô về làng cũ.

Cảm nhận về hai cây phong càng lúc càng sâu sắc hơn là ở lời tâm sự “cứ mỗi lần về quê, khi xuống xe lửa đi qua thảo nguyên về làng, tôi đều có bổn phận đầu tiên là từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc ấy”. Tại sao việc đưa mắt tìm hai cây phong được nhân vật “tôi” coi là “bổn phận đầu tiên” mà không là một việc khác? Có phải là vì chúng giữ vị trí dẫn đường, vì những ấn tượng thời thơ ấu, hay vì chúng đẹp qua cái nhìn của nhân vật “tôi” nay đã là họa sĩ? Hình như ngoài những điều ấy, hai cây phong còn ẩn chứa điều bí ẩn nào đó cuốn hút tâm hồn nhân vật “tôi”, khiến nhân vật “tôi” cảm nhận hai cây phong sinh đôi ấy khác hẳn với các loại cây khác, “chứng có tiếng nói riêng và hẳn phải có một tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu”.

Từ cảm nhận ấy, nhân vật tôi tập trung miêu tả tiếng lá reo của hai cây phong như hơi thỏ, tiếng nói cười của hai con người. Ai-ma-tốp không chỉ vận dụng thi giác để thấy cây nghiêng ngả, “lay động lá cành vận dụng thính xác để nghe được “tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau” mà còn vận dụng cả trí tưỏng tượng phong phú của người họa sĩ khi miêu tả hai cây phong sinh đôi giữa đồi cao lộng gió. Nhà văn đã sử dụng tối đa nghệ thuật so sánh để mô tả tiếng phong reo theo tâm trí tưởng tượng của nhân vật, lúc thì “tưởng chừng như một làn sóng thảy triều ”, lúc thì “lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào ”, lúc thì “reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực”. Rõ ràng với lối miêu tả hình ảnh thực xen lẫn với tâm trí tưồng tượng ây, nhà văn đã mang đến cho người đọc hai cây phong mang tâm hồn bí ẩn. Với nhân vật “tôi”, dù hiểu được điều bí ẩn của hai cây phong, nhưng đó chỉ là hiện tượng vật lý. Còn về tình cảm thì “Tuổi trẻ của tồi đã để lại nơi ấy, bên cạnh chứng như một mảnh võ cửa chiếc gương thần xanh..”. Nó đã là điều thuộc về tâm linh, sự gắn bố tự nhiên với hai cây phong từ thuở còn thơ đại mà đến tận ngày nay nhân vật “tôi” vẫn “Mong sao chóng về với làng, chóng lên đồi mà đến với hai cây phong”.

Một mạch văn xuyên suốt, nhân vật “tôi” đã nhân danh mình để nói lên tình cảm gắn bó với ngôi làng Ku-ku-rêu, nhất là với hai cây phong sinh đôi. Ấy là mạch văn miêu tả những gì thuộc về cá nhân. Nhưng khi nhắc đến “tuổi trẻ cửa tôi đã để lại nơi ấy” thì danh xưng và mạch văn thay đổi bằng lối văn hồi ức, miêu tả lại hoạt động của “bọn con trai chúng tôi trong đó có nhân vật “tôi”. Hình ảnh quá khứ, nhất là lần cùng với bạn chạy ào lên chỗ hai cây phong để phá tổ chim hiện về như cảnh phim quay chậm. Những đoạn văn hồi ức đã làm sống lại thời tuổi thơ trong sáng của nhân vật tôi cùng bạn bè với hai cây phong. Người và cây thật gần gũi, thật gắn bó trong những câu văn của Ai-ma-tốp. Người thì “reo hò, huýt còi ầm ĩ chạy lên đồi còn cây thì “nghiêng ngả đung đưa như muốn chào mời chúng tôi đến với bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền ”.

Hai cây phong như hai con người có tâm hồn hòa nhịp với tâm hồn tuổi trẻ. Và còn hơn thế là chắp cánh cho tuổi trẻ, khi ở trên những cành cao nhất “bỗng như có một phép thần thông nào vụt mở ra trước mắt chúng tôi cả một thế gỉớỉ đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng“. Nhờ hai cây phong mà bọn trẻ “chúng tôi” mở rộng tầm nhìn. Từ khoảng hẹp quanh đồi, quanh làng, nay ở trên cành cao nhìn quanh thấy trời đất rộng bao la mà kể từ lúc sinh ra cho đến giây phút trước khi trèo lên cành cây phong cao ngất “chứng tôi“ chưa hề thấy. “Chúng tôi cố giương hết tầm mắt nhìn vào nơi xa thẳm biêng biếc của thảo nguyên và nhìn thấy khổng biết bao nhiêu, bao nhiêu là vùng đất mà trước đây chúng tôi chưa từng biết đến, thấy những con sông mà trước đây chúng tôi chưa từng nghe nói”. Và điều quan trọng khác là những gì được nhìn thây ở chung quanh ấy đã gợi cho “chúng tôi” suy nghĩ về giới hạn của núi sông, cây cỏ, bầu trời và những đám mây...; lắng nghe tiếng gió ảo huyền và tiếng lá cây đáp lại lời gió. Mạch văn ghi lại hồi ức chấm dứt.

Truyện trở lại với mạch kể của nhân vật “tôi” nhân danh bản thân miêu tả hai cây phong và nêu cảm xúc, suy nghĩ một cách gần gũi, sâu xa về chung, kể cả điều mà giờ đây “tôi” mới nêu ra: “Ai là người đã trồng hai cây phong trên đồi này? Người vô danh ấy đã ước mơ gì, [...] đã ấp ủ những niềm hi vọng gì khi vun xới chúng nơi đây, trên đỉnh đồi cao này?”. Và một câu hỏi khác: “Quả đồi có hai cây phong ấy, không biết vì sao ở làng tôi họ gọi là “Trường Đuy-sen”.” Câu hỏi này đã hàm chứa câu trả lời kín đáo cho câu hỏi trên.

Đoạn truyện là lời kể và hồi ức về một quãng đời của nhân vật “tôi”. Qua ngòi bút của T.Ai-ma-tôp, hình ảnh người thầy đầu tiên không tách rời khỏi bao thế hệ học trò mà hai cây phong là biểu tượng của sự gần gũi ấy. Với bút pháp tượng trưng, lời văn trữ tình giàu chất thơ, hai cây phong được diễn tả như hai con người ẩn chứa cái đẹp, cái thiện, hy sinh luôn luôn bị thử thách, và cuối cùng đã chiến thắng, mà cụ thể là nhân vật “tôi", một học trò cũ đã thành danh dù đang ở nơi xa nhưng luôn tìm dịp quay về làng cũ để đến với hai cây phong “nghe mãi tiếng lá reo cho đến khỉ say sưa ngây ngất". Ai-ma-tốp được mọi người biết đến là nhờ cách viết khéo léo lấy.

500 bài mẫu hay nhất

Phân tích đoạn trích Hai cây phong – mẫu 2

Ai-ma-tốp sinh năm 1928, trong một gia đình viên chức ở nước cộng hoà cư-rư-gư-xtan (hay còn gọi là Kir-ghi-zi) ở vùng Trung Á (thuộc Liên Xô cũ). Năm 1953, Ai-ma-tốp tốt nghiệp Đại học nông nghiệp, trở thành kĩ sư chăn nuôi. Mấy năm sau, ông học sáng tác rồi chuyển sang hoạt động báo chí và viết văn. Tập Núi đồi và thảo nguyên của Ai-ma-tốp đã được trao tặng Giải thưởng Lê-nin, một giải thưởng cao quý của Liên bang Xô viết. Tác phẩm này gồm ba truyện vừa: Người thầy đầu tiên, Cây phong non trùm khăn đỏ, Mắt lạc đà. Ngoài ra, Ai-ma-tốp còn có nhiều tác phẩm nổi tiếng khác như Vĩnh biệt Gun-xa-rư (1966). Con tàu trắng (1970), Một ngày dài hơn thế (1980)… Tên tuổi nhà văn Ai-ma-tốp đã trở nên quen thuộc với bạn đọc trên toàn thố giới. Hai cây phong là đoạn trích từ mấy trang đầu của truyện Người thầy đầu tiên.

Bối cảnh của truyện là làng Ku-ku-rêu ở một vùng núi hẻo lánh, nghèo nàn, lạc hậu vào thời kì đầu thế kỉ hai mươi. Thời đó, tư tưởng phong kiến, gia trưởng còn nặng nề, phụ nữ bị coi thường và trẻ mồ côi bị rẻ rúng. Cô bé An-tư-nai đã mất cả cha lẫn mẹ, phải sống nhờ gia đình chú thím. Cô phải làm việc quần quật suốt ngày và chịu sự giám sát hà khắc của bà thím dâu đáo để, độc ác. Thầy giáo trẻ Đuy-sen được Đoàn thanh niên Cộng sản cử về làng để mở trường xoá mù chữ đã hết lòng giúp đỡ để An-tư-nai được đi học. Bà thím tham tiền ép gả cô bé làm vợ lẽ một gã đàn ông khá giả trong vùng. Một lần nữa, cô bé lại được thầy Đuy-sen giải thoát và gửi lên tỉnh học, rồi tiếp tục học đại học ở Mát-xcơ-va. Sau này, cô trở thành nữ viện sĩ An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-va. Cồn thầy Đuy-sen lúc về già làm nghề đưa thư.

Đoạn trích Hai cây phong là bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ và là kí ức sâu sắc của tuổi thơ hiện lên qua dòng hồi tưởng tràn đầy cảm xúc yêu thương. Thông qua việc miêu tả vẻ đẹp của hai cây phong, tác giả ca ngợi quê hương yêu dấu, nơi đã khắc sâu bao kỉ niệm buồn vui và hun đúc trong tâm hồn thơ dại những ước mơ, khát khao cháy bỏng. Đây là câu chuyện của một người xa quê kể về nơi chôn nhau cắt rốn của mình bằng tình cảm gắn bó tha thiết, thiêng liêng. Mở đầu đoạn văn, tác giả giới thiệu vị trí của làng mình trên thảo nguyên bao la: Làng Ku-ku-rêu chúng tôi nằm ven chân núi, trên một cao nguyên rộng có những khe nước ào ào từ nhiều ngách đá đổ xuống. Phía dưới làng tôi là thung lũng Đất vàng, là cánh thảo nguyên Ca-dắc-xtan mênh mông nằm giữa các nhánh của rặng núi Đen và con đường sắt làm thành một dải thẫm màu băng qua đồng bằng chạy tít đến tận chân trời phía Tây.

Khung cảnh trữ tình này vừa là phông nền làm nổi bật hình ảnh hai cây phong, vừa là nguồn cảm hứng bất tận của tác giả: Phía trên làng tôi, giữa một ngọn đồi, có hai cây phong lớn. Tôi biết chúng từ thuở bắt đầu biết mình. Dù ai đi từ phía nào đến làng Ku-ku-rêu chúng tôi cũng đều trông thấy hai cây phong đó trước tiên, chúng luôn hiện ra trước mắt hệt như những ngọn hải đăng đặt trên núi… Cứ mỗi lần về quê, khi xuống xe lửa đi qua thảo nguyên về làng, tôi đều coi bổn phận đầu tiên là từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc ấy. Tâm trạng này của tác giả giống như tâm trạng của người đi xa, nóng lòng muốn gặp lại người thân sau bao ngày cách biệt. Dẫu chưa nhìn thấy cây nhưng hình ảnh thân thuộc của chúng đã hiện rõ trong tâm tưởng: Dù chúng có cao đến đâu chăng nữa, đứng xa thế cũng khó lòng trông thấy ngay được, nhưng tôi thì bao giờ cũng cảm biết được chúng, lức nào cũng nhìn rõ.

Hình ảnh của hai cây phong được coi là dấu ấn của làng đã in sâu trong trái tim, khối óc và trở thành một phần máu thịt của người đi xa :Đã bao lần tôi từ những chốn xa xôi trở về Ku-ku-rêu, và lần nào tôi cũng nghĩ thầm với một nỗi buồn da diết: “Ta sắp được thấy chúng chưa, hai cây phong sinh đôi ấy? Mong sao chóng về tới làng, chóng lên đồi mà đến với hai cây phong! Rồi sau đó cứ đứng dưới gốc cây để nghe mãi tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất”. Tình yêu tha thiết dành cho hai cây phong tuôn chảy không ngừng dưới ngòi bút tinh tế của nhà văn đã mang lại cho hai cây phong đời sống tâm hồn phong phú như con người. Đây là bức tranh được vẽ bằng thứ ngôn ngữ đầy tính tạo hình của hội họa và tính trữ tình của thơ, của nhạc:

Trong làng tôi không thiếu gì các loại cây, nhưng hai cây phong này khác hẳn – chúng có tiếng nói riêng và hẳn phải có một tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu. Dù ta tởi đây vào lúc nào, ban ngày hay ban đêm, chúng cũng vẫn nghiêng ngả thân cây, lay động lá cành, không ngớt tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau. Có khi tưởng chừng như một làn sóng thủy triều dâng lên vỗ vào bãi cát, có khi lại nghe như một tiếng thì thầm thiết tha nồng thắm truyền qua lá cành như một đốm lửa vô hình, có khi hai cây phong bỗng im bặt một thoảng, rồi khắp lá cành lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào. Và khi mây đen kéo đến cùng với bão dông, xô gãy cành, tia trụi lá, hai cây phong nghiêng ngả tấm thân dẻo dai và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực.

Hai cây phong được quan sát, miêu tả tỉ mỉ, sinh động bằng đôi mắt họa sĩ, đôi tai nhạc sĩ và trái tim của nhà thơ. Bên cạnh bức tranh bằng ngôn từ là một bản giao hưởng của âm thanh với đủ cung bậc buồn vui. Người viết đã phát huy cao độ trí tưởng tượng bay bổng và cảm xúc say mê, nồng nhiệt của mình vào việc thể hiện vẻ đẹp lạ thường của hai cây phong. Có khi chúng thì thầm thiết tha nồng nàn, có khi chúng bỗng im bặt một thoáng, rồi khấp lá cành lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào. Được nhân cách hóa cao độ nên hai cây phong có tiếng nói và tâm hồn đa dạng, phong phú, cuốn hút lòng người.

Âm thanh huyền ảo phát ra từ hai cây phong làm say đắm tuổi thơ sau này đã được nhà văn khám phá ra nhờ những hiểu biết khoa học:Về sau, khi nhiều năm đã trôi qua, tôi mới hiểu được điều bí ẩn của hai cây phong. Chẳng qua chúng đứng trên đồi cao lộng gió nên đáp tại bất kì chuyển động khe khẽ nào của không khí mỗi chiếc lá nhỏ đều nhạy bén đón tấy mọi làn gió nhẹ thoảng qua. Dấu ấn và kỉ niệm về hai cây phong vẫn còn nguyên vẹn sau ngần ấy thời gian bởi vì hai cây phong gắn bó thân thiết với tuổi học trò. Tác giả kể rằng : Việc khám phá ra chân lí giản đơn ấy vẫn không làm tồi vỡ mộng xưa, không làm tôi bỏ mất cách cảm thụ của tuổi thơ mà tôi còn giữ đến tận ngày nay. Và cho đến tận ngày nay tôi vẫn thấy hai cây phong trên đồi có một vẻ sinh động khác thường. Tuổi trẻ của tôi đã để lại nơi ấy, bên cạnh chúng như một mảnh vỡ của chiếc gương thân xanh…

Hai cây phong đẹp như những cây thần trong cổ tích, vẻ đẹp kì diệu của chúng sẽ mãi mãi in sâu trong tâm khảm nhà văn, bất chấp quy luật thay đổi của thiên nhiên, của lòng người bởi vì nó được nhìn qua đôi mắt trẻ thơ chan chứa tình yêu nồng nàn, sâu đậm đối với những gì thân thuộc nhất của quê hương. Theo dòng hồi tưởng miên man, kỉ niệm gắn liền với hai cây phong dần dần hiện lên rõ ràng, tươi mới như vừa xảy ra hôm qua. Những lúc được vui chơi cùng cây là những khoảnh khắc vui sướng, hạnh phúc của tuổi thơ:

Vào năm học cuối cùng, trước khi bắt đầu nghỉ hè, bọn con trai chúng tôi chạy ào lên đấy phá tổ chim. Cứ mỗi lần chúng tôi reo hò, huýt còi ầm ĩ chạy lên đồi là hai cây phong khổng lồ lại nghiêng ngả đung đưa như muốn chào mời chúng tôi đến với bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền. Và chúng tôi, lũ nhóc con đi chân đất, cõng kênh nhau bám vào các mắt mấu và cành cây trèo lên cao làm chấn động cả vương quốc loài chim. Hàng đàn chim hoảng hốt kêu lên, chao đi chao lại trên đầu. Nhưng chúng tôi vẫn chưa coi vào đâu, đến đây đã thấm gì! Chúng tôi cứ leo lên cao nữa, cao nữa – nào xem ai can đảm và khéo léo hơn ai! Và từ trên những cành cao ngất, cao đến ngang tầm cánh chim bay, bỗng như có một phép thần thông nào vụt mở ra trước mắt chúng tôi cả một thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng. Tưởng chừng như cảm giác háo hức, hiếu kì của cậu bé mười mấy tuổi năm nào khi trèo lên ngọn cây, phóng tầm mắt về phía chân trời và lắng tai nghe tiếng gió ảo huyền thì thầm trò chuyện với lá phong giờ đây vẫn còn nóng hổi trong tâm hồn người họa sĩ:

Đất rộng bao la làm chúng tôi sửng sốt. Mỗi đứa chúng tôi đều nín thở ngồi lặng đi trên một cành cây và quên mất cả chim lẫn tổ chim. Chuồng ngựa của nông trang mà chúng tôi vẫn coi là tòa nhà rộng lớn nhất trên thế gian, ngồi đây chúng tôi thấy chỉ như một căn nhà xép bình thường. Phía sau làng là dải thảo nguyên hoang vu mất hút trong làn sương mờ đục. Chúng tôi cố giương hết tầm mắt nhìn vào nơi xa thẳm biêng biếc của thảo nguyên và nhìn thấy không biết bao nhiêu, bao nhiêu là vùng đất mà trước đây chúng tôi chưa từng biết đến, thấy những con sông mà trước đây chúng tôi chưa từng nghe nói.

Những dòng sông lấp lánh tận chân trời như những sợi chỉ bạc mỏng manh. Chúng tôi nép mình ngồi trên các cành cây suy nghĩ: đã phải đấy là nơi tận cùng thế giới chưa, hay phía sau vẫn còn có bầu trời như thế này, những đám mây, những đồng cỏ và sông ngòi như thế này? Hình ảnh hai cây phong gợi lại những ki niệm khó quên về thời niên thiếu tinh nghịch, hồn nhiên, trong sáng. Nó nâng cao và mở rộng tầm mắt, đồng thời thổi bùng lên ngọn lửa khát khao hiểu biết trong lòng nhà văn về những miền đất bí ẩn đầy sức quyến rũ lẩn sau chân trời xa thẳm biêng biếc kia…

Kết thúc đoạn văn, tác giả đặt ra câu hỏi ai đã trồng hai cây phong và đặt tên cho quả đồi: Thuở ấy, chỉ có một điều tồi chưa hề nghĩ đến ai là người đã trồng hai cây phong trên đồi này ? Người vô danh ấy đã ước mơ gì, đã nói, những gì khi vùi hai gốc cây xuống đất, người ấy đã ấp ủ những niềm hi vọng gì khi vun xới chúng nơi đây, trên đỉnh đồi cao này? Quả đồi có hai cây phong ấy, không biết vì sao ở làng tôi họ gọi là “Trường Đuy-sen”.

Cuối tác phẩm, tác giả đã giải thích nguồn gốc của hai cây phong bằng một câu chuyện cảm động gắn liền với tình thầy trò thắm thiết. Cách đây bốn mươi năm, chính thầy Đuy-sen đã đem hai cây phong về trồng trên đồi này và thầy đã gửi gắm ở hai cây phong non hi vọng của mình vào những đứa trẻ nghèo khổ, thất học như An-tư-nai sau này sẽ trở thành những người hữu ích. Thầy Đuy-sen đã gieo những hạt giống ước mơ vào tâm hồn non trẻ. Hai cây phong đầu làng qua bao năm tháng đã thầm lặng góp phần cùng người thầy đầu tiên biến ước mơ thành hiện thực.

Chuyện về hai cây phong giống như lời tâm sự tự nhiên và chân thành. Tác giả đã truyền tình yêu tha thiết từ trái tim mình sang trái tim bạn đọc, dẫn dắt bạn đọc đến với nhân vật Đuy-sen – người thầy đầu tiên của ngôi làng Ku-ku-rêu nghèo nàn, nhỏ bé bằng đoạn văn miêu tả vẻ đẹp khó quên của hai cây phong nhân chứng của câu chuyện hết sức xúc động về tình thầy trò, về lương tâm và trách nhiệm cao cả của thầy giáo Đuy-sen.

Phân tích đoạn trích Hai cây phong – mẫu 3

Hai cây phong là phần đầu của truyện tả cảnh sắc làng Kur-ku-rêu, hồi tưởng lại kỉ niệm êm đềm về hai cây phong của chốn quê dào dạt tâm hồn đứa con đi xa về thăm nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Trích đoạn này đã thể hiện một cách đằm thắm, thiết tha tình yêu cố hương, biểu lộ lòng biết ơn người thầy đầu tiên đã trồng cây và trồng nơi thảo nguyên hoang vu mênh mông.

Cảnh sắc làng Kur-ku-rêu, chốn quê thân yêu của nhân vật “tôi” – họa sĩ, sau những năm tháng đi xa trở về thăm làng. Phần đầu trích đoạn nói về cảnh sắc làng Kur-ku-rêu, chốn quê thân yêu của nhân vật “tôi” – họa sĩ, sau những năm tháng đi xa trở về thăm làng. Những tiếng: “Lùng Kur-ku-rêu chúng tôi”… “phía dưới làng tôi…”, “phía trên làng tôi” cất lên thật gợi cảm, đầm ấm và mến thương biết bao! Làng ở “ven chân núi” trên một cao nguyên.

Cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, bao la. Có “thung lũng đất vàng”, có cánh thảo nguyên Ca-dắc-xtan “mênh mông”. Có khe nước “ào ào từ miền ngách đả đổ xuống”, có rặng núi Đen và con đường sắt “băng qua dồng hằng chạy tít đến tận chân trời phía tây”. Cảnh sắc quê hương được cảm nhận bằng nhừng hình ảnh đường nét đậm nhạt, cao thấp, gần xa làm hiện lên một không gian nghệ thuật rất đẹp với bao yêu mến tự hào của một đứa con đối với cố hương, của một họa sĩ tài hoa trước thiên nhiên kì thú. Sau câu chữ và cảm xúc dâng trào với bao bồi hồi thương nhớ.

Nhớ làng Kur-ku-rêu đối với đứa con xa quê trở về là nhớ hai cây phong trên đồi cao ở đầu làng. Họa sĩ biết hai cây phong “từ thuở bắt đầu biết mình”, một sự gắn bó thiết tha với cả một đời người. Hai cây phong lớn “như những ngọn hải đãng đạt trên núi ” từng gây ân tượng đối với bất cứ ai, dù “đi từ phía nào ” đến thăm làng Kur-ku-rêu. Riêng đối với họa sĩ, mồi lần về thăm quê nhà đã “từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc ấy ” và tự coi đó là “bổn phận đầu tiên ” của mình. Với họa sĩ, tình yêu quê hương đã chan hòa, đã gắn bó với tình thương nhớ hai cây phong lớn đầu làng.

Nhớ hai cây phong đối với họa sĩ là nhớ “với một nỗi buồn da diết”; nên càng về gần tới làng lại càng nhớ. Đứa con li hương tự hỏi thầm lòng mình: “Ta sắp dược thấy chúng chưa, hai cây phong sinh dôi ấy? Mong sao chóng về tại làng, chóng lên đồi mà đến vsi hai cây phong!” và hạnh phúc biết bao đối với đứa con xa quê lâu ngày mơi trở về, được “đứng dưới gốc để nghe mãi tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất ”.

Nhớ cây phong đối với khách tha hương là nhớ “tiếng nói riêng”, “tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu” của nó. Nhớ cây phong là nhớ dáng hình của nó, nhớ thân cây “nghiêng ngả” nhớ âm thanh “rì rào” của lá cành “lay động” cả ban ngày hay ban đêm. Ai-ma-tốp đã sáng tạo nên hàng loại ẩn dụ, so sáng và nhân hóa để gợi tả và biểu cảm về “tiếng nói riêng” “tâm hồn riêng” của hai cây phong quê nhà “như một làn sóng thủy triều dâng lên, vồ vào bãi cát”, “như một tiếng thì thầm thiết tha nồng thắm chuyền qua lá cành , như một đốm lửa vô hình”…

Có lúc hai cây phong tưởng như đang trầm tư “bỗng im bặt một thoáng” rồi “lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào”….Nếu cây tre, lũy tre làng ta, trong “Bão bùng thân bọc lấy thân – Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm” (Nguyễn Duy), thì cây phong làng Kur-ku-rêu, cây phong thảo nguyên trong mây đen và bão dông bị “xô gãy cành, tỉa trụi lá” , nó vẫn “dẻo dai và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháv rừng rực”. Hai cây phong có một sức sống vô cùng mãnh liệt, biểu tượng cho bao phẩm chất tốt đẹp của con người quê hương, con người thảo nguyên.

Đây là đoạn văn hay nhất, giàu hình tượng và biểu cảm nhất nói về hay cây phong, thể hiện một sự tin tưởng kì diệu, phong phú với tất cả tình yêu nồng hậu đối với hoa cỏ, cây lá: một đoạn văn đáng học thuộc, đáng nhớ: … “Trong làng tôi không thiếu gì các loại cây, nhưng hai cây phong này khác hẳn…và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực”. Họa sĩ yêu hai cây phong quê nhà với tất cả tấm lòng và tình nghĩa thủy chung, như ông đã lâm sự: “Tuổi trẻ của tôi đã dể lại mùa ấy, bên cạnh chúng như một mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh ”. “Mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh ” ấy là tâm hồn tuổi thơ vô cùng trong sáng.

Phần hai trích đoạn “Hai cây phong”, tác giả kết hợp-tự sự với miêu tả, nhắc lại kỉ niệm tuổi thơ êm đềm. Hoài niệm tuổi thơ về quê hương bao giờ cũng đằm thắm, thiết tha. Với con người Việt Nam chúng la, mỗi lần đi xa nhớ quê là nhớ hương vị đậm đà “nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương”, là nhớ con đò, cánh diều biếc, nhớ cây đa, giếng nước, sân đình, là nhớ dòng sông quê mẹ với bao kỉ niệm một thời thơ bé: “Bạn hè tôi tụm núm tụm bảyBầy chim non bơi Ịội trên sôngTôi đưa tay ôm nước vào lòngSông mở nước ôm tói vào dạ.. ”(“Nhớ con sông quê hương ” – Tế Hanh)

Nhân vật họa sĩ nhớ quê hương, nhớ làng Kur-ku-rêu là nhớ kỉ niệm tuổi thơ với cây phong thân thương. Không bao giờ có thể quyê được “buổi học cuối cùng” năm ấy, trước khi bắt đầu nghỉ hè. Bọn con trai nghịch ngợm và hồn nhiên “reo hò, huýt còi ầm ĩ” chạy lên đồi…. Hai cây phong như những người bạn thân tình mở lòng đón tiếp: “chúng nghiêng ngã đung đưa như muốn chào mời… đến với bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền”. “Lũ nhóc con đi chân đất” trèo lên hai cây phong “làm chấn động cả vương quốc loài chim”. Trên ngọn cây phong, “những cành cao ngất” bọn trẻ nhỏ làng Kur-ku-rcu vô cùng sung sướng ngắm nhìn cảnh vật gần xa. Chúng tưởng như “có một phép thần thông nào vụt mở ra trước mắt… Cả một thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng”.

Cây phong đã mơ rộng tầm mắt, làm sáng lên tâm hồn tuổi thơ, làm cho lũ trẻ “sửng sốt”. Tất cả đều “nín thở ngồi im lặng”… phóng tầm mắt về bốn phía chân trời. Bức tranh quê hương hiển hiện, như mở rộng, như vẫy gọi. Chuồng ngựa của nông trang, dải thảo nguyên hoang vu, “xa thẳm biên biếc”. Những dòng sông xa lạ “lấp lánh tận chân trời như những sợi chí hạc mỏng manh”. Lũ trẻ “lắng nghe tiếng gió ào huyền ”, tiếng “thì thầm to nhỏ” của “lá cây đáp lại lời gió”, rồi chúng nghĩ về những miền đất lạ nơi chân trời xa xôi, về bầu trời, những đám mây, những đồng cỏ, sông ngòi, “những miền đất bí ẩn đầy sức quyến rũ lẩn sau chân trời xa thắm biên biếc kia”.

Cậu bé – họa sĩ tương lai vô cùng xúc động “lắng nghe tiếng hai cây phong rì rào, tim đập rộn ràng vì thảng thốt và vui sướg:… ; lòng mơ tương và “cố hình dung ra những miền xa lạ kia”. Hai cây phong trên đồi quê không chỉ mở rộng tầm mắt mà còn nâng cánh ước mơ cho những em bé làng Kur-ku-rêu bay tới những chân trời xa xôi tươi sáng… Sau này, khi đã trưởng thành, nhân vật họa sĩ mới tự hỏi lòng mình: điều mà thuở ấu thơ chưa hề nghĩ đến “Ai là ngựời đã trồng hai cây phong trên đồi này? Người vô danh ấy đã ước mơ gì, đã nói những gì khi vùi hai gốc cây xuống đất, người ấy đã ấp ủ những niềm hy vọng gì khi vun xới chúng mù đây, trên đỉnh đồi cao này?”

Tuổi thơ non nớt cũng không hiểu vì sao quả đồi có hai cây phong ấy, bà con làng mình gọi là “Trường Đuy-sen “. Tình cảm “ăn quả nhớ kẽ trồng cây”, “uống nước nhớ nguồn” đã được Ai-ma-tốp diễn tả một cách tinh tế, sâu lắng, đầy chất thơ. Phần sau truyện “Người thầy đầu tiên” đã nói rõ tình cảm, tư tưởng tốt đẹp đó. Trích đoạn Hai cây phong là trang văn chứa chan thi vị, đã thể hiện một cách sâu sắc tình yêu quê hương, tình yêu cây cỏ, cảnh sắc thiên nhiên quê nhà. Những kỉ niệm đẹp của tuổi thơ và lòng biết ơn người thầy đầu tiên của đời mình, của quê hương mình đã làm nên chất thơ của truyện.

Đoạn văn tả tiếng nói riêng, tâm hồn riêng của cây phong là hay nhất. Đoạn văn kể lại kỉ niệm tuổi thơ treo lên hai cây phong nhìn về bốn phía chân trời là cảm động nhất. Dòng hồi tưởng, nỗi nhớ hai cây phong của nhân vật họa sĩ như được chắt lọc từ nơi sâu thẳm tâm hồn, rất chân thực, hồn nhiên và trong sáng, vẻ đẹp cây phong là vẻ đẹp thảo nguyên phương Bắc. Hai cây phong là bài ca nghĩa tình về quê hương, về người thầy vĩ đại đã “trồng cây và trồng người”…

500 bài mẫu hay nhất

Phân tích đoạn trích Hai cây phong – mẫu 4

Ai-ma-tốp là nhà văn nước Cộng hòa Cư-rơ-gư-xtan, một nước cộng hoà ờ vùng Trung Á, thuộc Liên Xô trước đây. Chủ đề chính trong các tác phẩm của ông thường là những con người với cuộc sống khắc nghiệt, khó khăn nhưng ẩn chứa trong đó là chất lãng mạn đến từ những tình cảm đáng quý, chân thành như tình bạn, tình thân rồi tình yêu. Các tác phẩm của ông luôn hướng tới lòng nhiệt huyết của thanh niên đặc biệt là các nữ thanh niên, thúc đẩy tinh thần đấu tranh, vượt qua những hy sinh mất mát trong chiến tranh để thoát khỏi sự ràng buộc của những hủ tục lạc hậu áp đặt lên nữ giới và trẻ em. Đoạn trích Hai cây phong được trích trong tác phẩm Người thầy đầu tiên, với ngòi bút sinh động đậm chất hội họa, hai cây phong đã được miêu tả một cách tinh tế và rõ nét, mà qua đó ta thấy hiện lên tình yêu quê hương tha thiết và tình cảm xúc động đặc biệt về một người thầy đã dành cả cuộc đời để ươm mầm ước mơ, hi vọng cho những học trò của mình - thầy Đuy-sen.

Về ngôi kể câu chuyện được kể theo ngôi thứ nhất, tác giả xưng "tôi" trong những cảm nhận chủ quan của mình về hai cây phong, và đây là ngôi kể quan trọng nhất thể hiện được hết những giá trị tư tưởng và biểu cảm của đoạn trích. Đến phần hồi tưởng về ký ức thuở ấu thơ nhiều năm về trước, ngôi kể đó có sự thay đổi từ "tôi" sang "chúng tôi", như vậy "chúng tôi" ở đây là đại diện cho những đứa trẻ có cùng những kỷ niệm tươi đẹp với hai cây phong, góp phần làm cho đoạn trích thêm phần linh hoạt và sinh động hơn cả. Trước hết nói về vị trí của hai cây phong, hai cây phong ấy nằm ở làng Ku-ku-rêu ven chân núi, trên một cao nguyên rộng, phía dưới chính là thung lũng đất vàng và cánh thảo nguyên Ca-dắc-xtan. Có thể thấy rằng bằng đôi mắt và chất hội họa trong mình tác giả đã đem đến một không gian vô cùng kháng đạt và rộng lớn để làm nền cho hai cây phong xuất hiện và đó cũng là hiện thực bối cảnh của một làng quê nghèo hẻo lánh của vùng Cư-rơ-gư-xtan đầy hoài niệm.

Trong đôi mắt người nghệ sĩ hình tượng hai cây phong trước hết hiện lên với một vẻ khái quát "Phía trên làng tôi, trên ngọn đồi, có hai cây phong lớn", sau đó tác mới đi vào miêu tả chi tiết hai cây phong bằng hình ảnh so sánh độc đáo "chúng luôn hiện ra trước mắt giống như những ngọn hải đăng trên núi". Nhân vật chính vẫn luôn trân trọng, nâng niu những ấn tượng thuở thơ ấu, xem hai cây phong như là những thứ thân thuộc nhất. Mà để đến khi đã trưởng thành đã qua phía bên kia dốc cuộc đời, ông vẫn giữ một thói quen nhìn về phía hai cây thông cao lớn như một "bổn phận". Trong lòng của nhân vật "tôi" có lẽ hai cây phong chẳng đơn thuần là một loài cây mà hơn thế nữa nó đã trở thành một cái gì đó rất gắn bó rất yêu thương, trong mắt tác giả hai cây phong ấy cũng "có tiếng nói riêng và hẳn phải có tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu".

Nhân vật chính nói vậy bởi những cảm nhận về sự lay động của hai cây phong trong tiềm thức "dù ngày hay đêm chúng vẫn nghiêng ngả thân cây, lay động lá cành, không ngớt tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau". Thậm chí trong sự tưởng tượng của nhân vật "tôi" cây phong còn ấp ủ trong mình những cảm xúc, những rung động mãnh liệt như một con người có linh hồn có tình cảm, lúc thì như làn sóng thủy triều vỗ vào bãi cát, lúc lại dịu dàng thiết tha, nồng thắm. Và cũng có những lúc bản thân hai cây phong "im bặt một thoáng, "cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào", rồi cũng có những khi cây phong phải gánh chịu những biến cố lớn trong cuộc đời, buộc chúng phải mạnh mẽ vượt qua, những "bão giông, xô gãy cành, tỉa trụi lá", khắc nghiệt đến thế nhưng chúng vẫn "dẻo dai và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực".

Chính điều ấy đã để lại trong lòng độc giả những ấn tượng sâu sắc về hai cây phong sinh đôi có linh tính, cảm xúc và sức sống bền bỉ dẻo dai là nguồn động lực cho con người vượt qua mọi khó khăn trắc trở. Có thể nói tình cảm của nhân vật chính với hai cây phong thuở ấu thơ đã để lại trong tâm hồn tác giả những dấu ấn sâu đậm khó có thể phai mờ. Đến khi đã trưởng thành, từng nhiều lần đi về chốn quê hương, qua nhiều trải nghiệm, tác giả cũng thấu hiểu "điều bí ẩn" của hai cây phong, nhưng ông vẫn trân trọng và nâng niu những cảm nhận, những giá trị mà ông từng nghĩ về hai cây phong thuở ấu thơ, bởi đó là những hồi ức tốt đẹp nhất mà ông từng có ở vùng quê nghèo khó, "tuổi trẻ của tôi đã ở lại nơi ấy",...

Sau những cảm nhận cá nhân về hai cây phong, thì nhân vật "tôi" còn có những cảm nhận, ký ức chung với những người bạn thuở thơ ấu, đó là những cuộc vui bất tận, sôi động gắn liền với hình bóng hai cây phong. Những lần lũ trẻ phá tổ chim, reo hò, huýt còi ầm ĩ, thì hai cây phong dường như cũng vui mừng "như muốn chào mời chúng tôi đến với bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu dàng". Hai cây thông cũng trở thành pháo đài, căn cứ của lũ trẻ, hay kỳ thú hơn là một vọng gác ngắm cảnh, mà ở đó chúng cảm thấy như có một phép thần thông mở ra một thế giới đẹp đẽ vô ngần trước mắt lũ trẻ có cuộc sống cơ cực, vất vả.

Bởi thế giới ấy chỉ đơn giản là chuồng ngựa của nông trang mà lũ trẻ xem là tòa nhà rộng lớn nhất thế giới, giờ đây khi ở trên hai cây phong cũng chỉ như một căn gác xép bình thường. Điều ấy trở thành bước đệm để mở ra trong lũ trẻ một thế giới mới rộng lớn hơn, bao la hơn vượt ra khỏi ngôi làng bé nhỏ, thảo nguyên rộng lớn, những vùng đất chưa biết tên, con sông chưa từng nghe nói. Từ những băn khoăn những thắc mắc về những thứ lạ lẫm ấy đã mở ra trong tâm hồn lũ trẻ những ước mơ, những khao khát khám phá, khao khát vượt ra khỏi ngôi làng nhỏ bé đến với những vùng đất rộng lớn hơn,... Rồi kết lại chỉ có một điều mà nhân vật chính chưa từng nghĩ đến rằng ai đã trồng hai cây phong này, ai là người đã gián tiếp khơi gợi trong ông niềm hy vọng, ước mơ về một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, về khao khát cháy bỏng thay đổi cuộc đời.

Đoạn trích Hai cây phong đã đem đến cho độc giả những cảm xúc đặc biệt về tình cảm gắn bó với quê hương thông qua hình ảnh hai cây phong độc đáo, được miêu tả với bút pháp hội họa đậm chất lãng mạn, hoài niệm. Từ đó mở ra câu chuyện về thầy Đuy-sen và cô bé An-tư-nai, câu chuyện về cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ để giành lấy sự công bằng trong cuộc sống, về sự nỗ lực thoát khỏi ràng buộc của những hủ tục lạc hậu đã đã gò ép cuộc đời của người phụ nữ và trẻ em ở miền quê nghèo khó.

Phân tích đoạn trích Hai cây phong – mẫu 5

Hai cây phong là đoạn trích ở phần đầu truyện Người thầy đầu tiên của nhà văn Ai-ma-tốp. Đoạn trích đã miêu tả vẻ đẹp nên thơ, đầy sức sống của cây phong và tâm trạng bồi hồi, xúc động của nhân vật “tôi” – họa sĩ khi được trở về làng. Hai cây phong là hình tượng trung tâm của bài, qua hình ảnh hai cây phong cho thấy sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên, rộng ra là với quê hương, xứ sở.

Hai cây phong trong cảm nhận của nhân vật tôi trước hết mang vẻ đẹp thơ mộng và hùng vĩ. Hai cây phong ấy cao lớn giữa ngọn đồi, nhìn chúng như những ngọn hải đăng, định hướng cho mọi người mỗi khi về làng. Nhưng hai cây phong ấy cũng có tiếng nói riêng, tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu. Tiếng lá reo như tiếng thì thầm khi tha thiết khi nồng nàn có khi lại như tiếng thở dài. Không chỉ vậy hai cây phong còn là nơi hội tụ của lũ trẻ. Dưới gốc cây chúng vui vẻ đùa giỡn, còn trên cao tít cây phong lại mở ra trước mắt chúng một thế giới lung linh huyền ảo như thế giới cổ tích với dải thảo nguyên hoang vu như mất hút trong làn sương mờ đục, những dòng sông lấp lánh tận chân trời như những sợi chỉ bạc mỏng mảnh.

Hai cây phong là một phần quan trọng, không thể thiếu đối với cuộc sống của bất cứ ai nơi đây: “Dù ai đi từ phía nào đến làng Ku-ku-rêu chúng tôi cũng đều trông thấy hai cây phong đó trước tiên” “tôi đều coi bổn phận đầu tiên là từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc ấy”. Hai cây phong trở thành người bạn tâm giao, tri âm, tri kỉ của họa sĩ: “Rồi sau đó cứ đứng dưới gốc cây để nghe mãi tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất”. Như vậy cây phong là tín hiệu để mỗi đứa con khi về làng định hướng. Qua những lời tâm sự đó ta còn thấy sự gắn nó tha thiết, sâu nặng của tác giả với hai cây phong, với cảnh vật quê hương.

Không chỉ vậy, hai cây phong còn là biểu tượng của lòng biết ơn với người thầy tận tâm Đuy-sen. Kết bài là những băn khoăn của nhân vật “tôi”: “Ai là người đã trồng hai cây phong trên đồi này? Người vô danh ấy đã ước mơ gì, đã nói những gì trước khi vùi hai gốc cây xuống đất, người ấy đã ấp ủ niềm hi vọng gì khi vun xới chúng nơi đây, trên đỉnh đồi cao?”. Những băn khoăn cũng như lời khẳng định về công lao to lớn của thầy Đuy-sen: khi trồng hai cây phong thầy đã gửi gắm bao khát khao, hi vọng những đứa trẻ nghèo khổ sẽ trở thành những người có ích cho xã hội. Thầy Đuy-sen – người thầy đầu tiên đã vun trồng ước mơ, niềm tin cho các thế hệ học trò.

Tác phẩm có sự kết hợp hài hòa giữa miêu tả với tự sự, biểu cảm: hình ảnh hai cây phong được miêu tả gắn với những chi tiết về kỉ niệm tuổi thơ; phong cảnh thiên nhiên được miêu tả bằng ngòi bút đậm chất hội họa nên vừa giàu chất tạo hình lại vừa thấm đẫm cảm xúc chân thành, đằm thắm. Ngôn ngữ kể chuyện đặc sắc, người kể chuyện ở ngôi thứ nhất, khi xưng tôi, khi xưng chúng tôi. Hai mạch kể vừa phân biệt, vừa lồng vào nhau, khiến câu chuyện hấp dẫn, thú vị hơn.

Bằng lời văn thấm đẫm chất trữ tình, miêu tả đậm chất hội họa, tác phẩm đã cho thấy sự gắn bó sâu nặng, tình yêu quê hương tha thiết của nhân vật tôi với quê hương, đặc biệt là với hai cây phong. Đồng thời văn bản còn thể hiện lòng biết ơn với thầy Đuy-sen người đã vun đắp, mơ ước, hi vọng cho trẻ em nơi đây.

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 8 chọn lọc, hay khác: