Soạn bài Thực hành tiếng Việt lớp 11 trang 110 Tập 2 - ngắn nhất Cánh diều
Haylamdo biên soạn và sưu tầm soạn bài Thực hành tiếng Việt: Ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết trang 110, 111 Tập 2 ngắn nhất mà vẫn đủ ý được biên soạn bám sát sách Ngữ văn lớp 11 Cánh diều giúp học sinh soạn văn 11 dễ dàng hơn.
Soạn bài Thực hành tiếng Việt lớp 11 trang 110 Tập 2 - ngắn nhất Cánh diều
Câu 1. (trang 110 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2 – Cánh diều): Phân tích đặc điểm của ngôn ngữ nói được thể hiện trong một đoạn kịch Tôi muốn được là tôi toàn vẹn (từ “Hồn Trương Ba: Ta... ta... đã bảo mày im đi!” đến “Hồn Trương Ba: (như tuyệt vọng) Trời!” ở các trang 104 – 105).
Trả lời:
Đặc điểm ngôn ngữ nói được thể hiện: là những lời nói dùng trong giao tiếp hằng ngày, người nói và người nghe được tiếp xúc trực tiếp với nhau, luân phiên nhau trong vai trò nghe và nói.
Câu 2. (trang 110 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2 – Cánh diều): Nhận xét về những đặc điểm của ngôn ngữ viết trong các đoạn văn sau:
a) Trong mười năm ấy, thơ mới đã tranh đấu gắt gao với thơ cũ, một bên giành quyền sống, một bên giữ quyền sống. Cuộc tranh đấu kéo dài cho đến ngày thơ mới toàn thắng. Trong sự thắng lợi ấy, cũng có công những người tả xung hữu đột nơi chiến trường, nhưng trước hết là công những nhà thơ mới. Tôi không so sánh các nhà thơ mới với Nguyễn Du để xem ai hơn ai kém. Đời xưa có thể có những bậc kì tài đời này không sánh kịp. Đừng lấy một người sánh với một người. Hãy sánh thời đại cùng thời đại. Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có thời đại phong phủ như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên,... và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu. (Hoài Thanh)
b) Việc Nguyễn Du sử dụng tiếng mẹ đẻ để viết “Truyện Kiều” được hậu thể đánh giả rất cao. Như con ong hút nhụy của muôn loài hoa để làm mật, nghệ sĩ Tổ Như đã kết hợp nhuần nhuyễn vốn ngôn ngữ dân gian và vốn ngôn ngữ bác học để tạo nên ngôn ngữ “Truyện Kiều” “như làm bằng ánh sáng vậy” (Nguyễn Đình Thi), “là một viên ngọc quý cơ hồ không có vết, là một tiếng đàn lạ không bao giờ lỡ nhịp, ngưng cung” (Hoài Thanh). (Hoàng Hữu Yên)
Trả lời:
Ngôn ngữ ở cả hai đoạn trích đều được chọn lọc trước khi viết, có sự trau chuốt cần người đọc đọc và phân tích, nghiềm ngẫm để lĩnh hội. Các câu, các từ tuân theo các quy tắc chính tả, các quy tắc tổ chức văn bản.
Câu 3. (trang 111 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2 – Cánh diều): Phân tích đặc điểm của ngôn ngữ viết hoặc ngôn ngữ nói thể hiện ở lời của người kể và của các nhân vật trong đoạn văn sau.
Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hẳn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hẳn không? Không biết đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hẳn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hẳn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hẳn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Có mà trời biết! Hẳn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết... (Nam Cao)
Trả lời:
Giọng điệu trần thuật hài hòa có sự kết hợp giữa ngôn ngữ viết với các lời độc thoại, giữa trực tiếp và lời nửa trực tiếp. Nhiều đoạn có sự lồng ghép giữa ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật. Ví dụ: Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hẳn không? Không biết đứa chết mẹ nào lại để ra thân hắn cho hẳn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hẳn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hẳn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Có mà trời biết! Hẳn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết...
Câu 4. (trang 111 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2 – Cánh diều): Dựa vào nội dung truyện ngắn Chí Phèo (Nam Cao), hãy viết một đoạn kịch ngắn hoặc một đoạn đối thoại giữa các nhân vật thể hiện được những đặc điểm của ngôn ngữ nói.
Trả lời:
Chí Phèo (đi loạng choạng, ngà ngà say, tay cầm chai rượu còn phân nửa): Trời ơi là trời! Sao đẻ cái số kiếp tôi khổ nhục thế này, sao không để tôi chết quách từ khi bị bỏ đói trong cái lò gạch nát ấy đi. Đời nhục hơn chữ nhục. Khốn khổ cái thân tôi...
Chí Phèo (nhìn người qua đường, chửi tiếp): Nhìn cái gì mà nhìn, không thấy ông đây đang uống rượu à? Cái làng Vũ Đại khốn nạn các người, một lũ hèn nhát... Mẹ kiếp!
Dân làng (quay qua kháo nhau): Kìa, nó lại lên cơn phê rượu, lại chửi loạn làng lên kìa...
Dân làng (tặc lưỡi nói với sang): Thôi kệ nó, ai chấp thằng say rượu. Nó chửi ai chứ chẳng phải chửi mình.
Dân làng (nói nhỏ): Ấy, bé bé cái mồm thôi, nó nghe thấy nó bây giờ.