Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng năm 2023
Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng năm 2023
Bài văn Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng gồm dàn ý chi tiết, 5 bài văn phân tích mẫu được tuyển chọn từ các bài văn phân tích đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài kiểm tra, bài thi môn Ngữ văn 8.
Đề bài: Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn "Chiếc lá cuối cùng".
A/ Dàn ý chi tiết
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả O-hen-ri, tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng” và giá trị nhân đạo của tác phẩm:
+ Kết thúc truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng” của tác giả O-hen-ri người đọc không chỉ lưu lại trong trí óc mình về một bức tranh kiệt tác vẽ về chiếc lá cuối cùng mà còn lắng đọng tâm hồn vào những giá trị nhân đạo sâu sắc của câu chuyện.
+ Giá trị nhân đạo ấy xuất phát từ chính tình bạn, tình yêu thương và hơn hết đó là tình người trong cuộc sống.
II. Thân bài
– Khái quát nội dung truyện ngắn:
+ Hoàn cảnh của Xiu, Giôn-xi và cụ Bơ-men
+ Bức tranh về chiếc lá cuối cùng
– Ca ngợi tình bạn cao đẹp, tinh thần nhân ái, đùm bọc lẫn nhau giữa những con người khốn khổ.
– Ca ngợi tình thương giữa người với người.
– Bộc lộ niềm cảm thông sâu sắc với những số phận và tấm lòng của nhân vật.
– Sức mạnh của tình người, lòng yêu thương.
III. Kết bài
Khẳng định ý nghĩa giá trị nhân đạo của tác phẩm: Tác giả O-hen-ri không cần khoa trương, phô diễn nhưng vẫn cho người đọc thấy được mong muốn hướng đến những điều tốt đẹp cho con người, mong cho cuộc sống của mọi người đều được tốt đẹp.
B/ Sơ đồ tư duy
C/ Bài văn mẫu
Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng – mẫu 1
Đọc các tác phẩm tự sự – như đoạn trích hồi kí Trong lòng mẹ của Nguyên Hồng, truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao, truyện ngắn Cô bé bán diêm của An-đéc-xen, chúng ta vô cùng xúc động trước những tình cảm gia đình (mẹ con, cha con, bà cháu) sâu nặng. Đó là những tình cảm ruột thịt, thể hiện bản chất cao quý của con người mà văn học đã ngợi ca. Nhưng bài ca tình người trong văn chương không chỉ dừng lại ở tình máu mủ, ruột thịt như thế, mà bao la vô tận. Bởi vì tình thương yêu giữa con người, tấm lòng vị tha cũng là một nét nhân bản cao quý từng xuất hiện ở mọi nơi, mọi lúc trên trái đất này. Đọc và suy ngẫm về truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của O Hen-ri, nhà văn Mĩ sống và sáng tác cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, chúng ta biết thêm một câu chuyện về tình người cao quý ấy.
Chuyện kể về ba người hoạ sĩ, hai cô gái trẻ và một hoạ sĩ già, sống nghèo khổ trong một nhà chung cư gần công viên Oa-sinh-tơn giữa mùa đông lạnh giá. Họ không phải là người ruột thịt, nhưng đã yêu thương nhau như người ruột thịt, hi sinh cả cuộc sống của mình để giúp nhau vượt qua cái chết. Đọc truyện ngắn ấy, người đọc không chỉ xúc động bởi nội dung câu chuyện mà còn bị lôi cuốn bởi nghệ thuật xây dựng tình huống và chi tiết truyện hết sức độc đáo của nhà văn. Đoạn cuối của tác phẩm (trích trong sách Ngữ văn 8) đã để lại cho chúng ta những ấn tượng không thể phai mờ là hình ảnh chiếc lá và tấm lòng của cụ Bơ-men. Đó là chiếc lá dũng cảm, là tình người bao la. Tình người ấy biểu hiện trước hết ở nhân vật cụ Bơ-men, rồi đến nhân vật Xiu, nhân vật Giôn-xi.
Cụ Bơ-men không phải nhân vật chính, cũng không xuất hiện nhiều trong văn bản. Nhưng chỉ qua vài nét chấm phá của nhà văn, người đọc đã hình dung khá rõ về người hoạ sĩ này. Đó là một cụ già ngoài sáu mươi, thân hình nhỏ nhắn, râu tóc loà xoà dữ tợn. Suốt đời cầm bút, ông cụ luôn mơ ước vẽ được một kiệt tác, nhưng chưa bao giờ bắt đầu và tự cho mình là “một người thất bại trong nghệ thuật”. Vậy mà lần này cụ đã làm được một việc kì diệu, đã sáng tạo được một tác phẩm hội hoạ đích thực, một kiệt tác.
Khi lên gác, cảm nhận rõ giấc ngủ yếu đuối của Giôn-xi, rồi nhìn qua cửa sổ, thấy những chiếc lá trên cây thường xuân rụng gần hết, cụ Bơ-men đã nhìn Xiu – cô chị kết nghĩa của Giôn-xi, lặng lẽ chẳng nói năng gì. Tuy không nói, nhưng trong tâm trạng ông cụ hẳn đang nung nấu một ý nghĩ, một quyết định nào đó vô cùng quan trọng. Đối với Bơ- men, hai cồ hoạ sĩ nghèo hàng xóm là những người thân yêu gần gũi như ruột thịt. Cụ thường ngồi làm mẫu cho cô chị vẽ. Cụ hiểu rất rõ tình trạng bệnh tật và tâm hồn yếu đuối của Giôn-xi. Cụ đã từng “tự coi mình là con chó xồm lớn chuyên gác cửa bảo vệ hai hoạ sĩ trẻ ở phòng vẽ tầng trên” kia mà ! Do đó, ông cụ đã…
Nhà văn không kể tiếp cụ Bơ-men đã nghĩ gì, làm gì ngay trong đêm mưa gió ấy, mà dùng thủ pháp buông thả nhân vật, giấu kín sự việc, ngắt đoạn, đảo ngược thời gian để kể câu chuyện về hai chị em Xiu và Giôn-xi. Cho đến giây phút quan trọng nhất của cuộc đời Giôn-xi – giây phút chiến thắng cái chết, dần dần trở về với sự sống – Giôn-xi và người đọc chúng ta mới biết rõ công việc của cụ Bơ-men. Thì ra, giữa cái đêm lạnh giá, gió bấc ào ào, mưa đập mạnh vào cửa sổ, người hoạ sĩ già ấy đã vẽ chiếc lá thường xuân thay cho chiếc lá cuối cùng vừa lìa cành trên bức tường đối diện ở phòng của Giôn-xi. Một mình ông cụ đã bắc thang trèo lên tường, cầm đèn bão, mang đầy đủ bút lông và bảng pha màu,… để sáng tác tác phẩm của mình.
Tuổi cao, sức yếu mà dám đương đầu với thiên nhiên khắc nghiệt, làm việc âm thầm như thế, thật là một con người dũng cảm. Nhưng không chỉ là một hành động dũng cảm, vẽ chiếc lá thường xuân trên tường giữa đêm mưa gió như thế thực sự là một quá trình sáng tạo gian khổ mà hào hứng của cụ Bơ-men. Ngỡ như người hoạ sĩ đã dồn hết tâm hồn, khát vọng và sức lực của đời mình cho tác phẩm. Do đó, đúng như lời nhận xét của Xiu, hình ảnh chiếc lá thường xuân trên bức tường kia “chính là kiệt tác của cụ Bơ-men”. Gọi đó là kiệt tác vì chiếc lá ấy giống in như chiếc lá thật, thậm chí còn hơn cả một chiếc lá thật. Nó đã dũng cảm bám vào cuống lá, bám chắc trên tường, mặc cho mưa tuôn, bão thổi, mặc cho khí lạnh hoành hành.
Chính sức sống kiên cường ấy của chiếc lá đã thổi vào tâm hồn cô hoạ sĩ Giôn-xi hơi ấm của niềm tin và nghị lực, kéo cô từ vực thẳm của bệnh tật vươn lên chiến thắng bệnh tật, vượt qua cái chết, trở về sự sống. Trong lí luận hội hoạ, kiệt tác không phải là bức tranh giống thật kiểu “sao chép”, “chụp ảnh” đơn thuần mà phải là những đường nét, những sắc màu, những bố cục, chất liệu tác phẩm chứa đựng sự sống, toát ra sức sống, tác động tích cực đối với cuộc sống, lay động tâm hồn, tình cảm của người xem rồi thức tỉnh họ,… Bức tranh “Chiếc lá thường xuân” ấy của hoạ sĩ Bơ-men đã mang đầy đủ các yếu tố của một kiệt tác hội hoạ. Trong một phút xuất thần, bằng tình thương yêu mạnh mẽ đối với Giôn-xi, bằng quyết tâm cứu sống cô gái, một nữ hoạ sĩ còn trẻ, đang hứa hẹn nhiều sáng tạo nay mai, cụ Bơ-men đã vẽ thành công tác phẩm, thoả nguyện những ước mơ ám ảnh của cả cuộc đời. Sau đó, cụ đã lặng lẽ ra đi. Người hoạ sĩ già ấy đã hiến dâng sự sống của mình để giành lại sự sống và tuổi trẻ cho Giôn-xi.
Cái nghĩa cử ấy của cụ Bơ-men cũng là một kiệt tác. Kiệt tác này không có đường nét, sắc màu, bố cục cụ thể và cũng không hiện lên trước mắt mọi người đến mức độ kì diệu. Có thể nói, với hình ảnh chiếc lá được vẽ ở trên tường và cách “sáng tác” âm thầm, lặng lẽ của nhân vật cụ Bơ-men, nhà văn O Hen-ri đã ngợi ca tình thương, tấm lòng vị tha cao cả của những con người nghèo khổ trên đất Mĩ đầu thế kỉ XX nói riêng, trên mọi đất nước của trái đất này nói chung, ngày xưa cũng như ngày nay. Điều đặc sắc hơn nữa của ngòi bút O Hen-ri là ông không trực tiếp kể chuyện và cũng không,kể vào cái đêm chiếc lá được vẽ mà để cho Xiu thuật lại với Giôn-xi, sau khi Giôn-xi khoẻ lại nhằm khích lệ cô gái, tạo sự hấp dẫn, bất ngờ cho người đọc và làm nổi bật đức hi sinh, tấm lòng vị tha như thánh thần của người hoạ sĩ già.
Cùng với nhân vật cụ Bơ-men, nhân vật Xiu, cô hoạ sĩ nghèo, cũng được nhà văn khắc hoạ và ngợi ca bằng những sự việc, chi tiết truyện thật cảm động. Tuy chỉ là chị em kết nghĩa, nhưng đối với Giôn-xi, Xiu đã thương yêu chăm sóc như đối với đứa em ruột thịt. Cảnh ngộ của Xiu cũng đói nghèo, thiếu thốn giống Giôn-xi. May mắn hơn em, Xiu không bị đau ốm. Song cô luôn lo lắng thấp thỏm trước tình trạng sức khoẻ và tâm trạng bi quan của em. Ngày ngày, thấy Giôn-xi đếm từng chiếc lá rụng, Xiu tưởng như thần chết đang từng bước đến gần căn phòng của hai chị em. Cho đến ngày cuối cùng, ngó ra ngoài cửa sổ nhìn cây tầm xuân – chắc rằng trên cành chỉ lơ thơ một hai chiếc lá – Xiu thực sự đã sợ sệt, nhìn cụ Bơ-men một lát mà “chẳng biết nói năng gì”.
Giống như sự im lặng của cụ Bơ-men mà chúng ta đã đoán định ở trên, hẳn tâm trạng Xiu lúc này đang trĩu nặng tình thương và nỗi lo âu trước giờ phút sức lực của Giôn-xi đang tàn dần. Do đó, sáng hôm sau, khi nghe Giôn-xi thều thào ra lệnh kéo tấm mành lên để nhìn xem còn chiếc lá nào trên tường, Xiu đã làm theo một cách chán nản, gần như tuyệt vọng. Nhưng, ô kìa, sau trận mưa vùi dập và những cơn gió phũ phàng kéo dài suốt đêm vẫn còn một chiếc lá bám trên tường gạch. Một chiếc lá đơn độc, mỏng manh đã hiện lên và những dự cảm như tuyệt vọng của Giôn-xi (“Hôm nay nó sẽ rụng thôi và cùng lúc đó thì em sẽ chết”) như những giọt tuyết giá lạnh gieo vào lòng Xiu. Cô cúi khuôn mặt hốc hác xuống thì thào với em : “Em hãy nghĩ đến chị, nếu em… Chị sẽ làm gì đây ?”. Đối với Xiu, mất Giôn-xi là mất nửa cuộc đời, mất Giôn-xi, mọi việc làm sẽ chẳng còn ý nghĩa nữa. Vì thế, mặc dù rất xót thương và lo lắng, Xiu vẫn cố hết sức chăm sóc em. Cô nấu cháo, pha sữa để bồi dưỡng sức lực cho Giôn-xi.
Cô mời bác sĩ và luôn thường trực bên cạnh Giôn-xi, tận tình cứu chữa và chiều chuộng Giôn-xi. Ngỡ như mỗi nhịp đập của trái tim Giôn-xi cũng là nhịp đập trong trái tim Xiu. Tinh bè bạn, tấm lòng nhân ái, vị tha của Xiu bao la, sâu nặng vô bờ. Tinh cảm cao đẹp ấy đã được đền đáp. Suốt cả ngày hôm đó, cho đến sáng hôm sau, trải qua một đêm mưa gió ào ào, mưa đập mạnh vào cửa sổ và rơi lộp độp xuống đất,… chiếc lá dũng cảm, chiếc lá cuối cùng kia vẫn không rụng. Khi Xiu kéo tấm mành lên, cô thấy “chiếc lá thường xuân vẫn còn đó” và cô đã. sung sướng vô ngần khi nghe Giôn-xi gọi lại đòi ăn cháo, uống sữa, pha rượu vang, hẹn sẽ “vẽ vịnh Na-plơ”. Sung sướng hơn nữa là lúc Xiu nghe người bác sĩ báo : “Chăm sóc chu đáo thì sẽ chiến thắng… Cô ấy đã khỏi nguy hiểm rồi, chị đã thắng”. Lời nói của người thầy thuốc ấy thật có ý nghĩa.
Phải chăng, cùng với sự khích lệ của “Chiếc lá dũng cảm” – kiệt tác của cụ Bơ-men, tình thương và sự chăm sóc tận tuỵ, hết mình của Xiu đã giúp cho Giôn-xi chiến thắng bệnh tật, chiến thắng những yếu mềm trong tâm hồn. Trong thắng lợi này của cô em yếu đuối, có phần quan trọng của chị Xiu nên cũng có thể coi Xiu chính là người chiến thắng. Tinh thương và tấm lòng vị tha đã chiến thắng. Khắc hoạ nhân vật Xiu, nhà văn sử dụng một giọng kể thủ thỉ, tâm tình như quạt một làn hơi ấm dịu dàng giữa những đêm đông giá buốt. Nhìn thấy chiếc lá cuối cùng bám mãi trên tường trong đêm mưa gió, Xiu đã rất ngạc nhiên. Cô reo thầm trong lòng : “Nhưng, ô kìa”… Thế thôi, nhà văn không kể tiếp về thái độ này của Xiu mà lái sang những việc khác. Cho đến hai ba ngày, sau khi chắc chắn Giôn-xi khỏi bệnh, Xiu mới khoan thai, nhỏ nhẻ kể hết mọi sự việc về chiếc lá dũng cảm kia cho em nghe. Cách ngắt đoạn, đảo ngược thời gian như thế khiến cho nhân vật Xiu trở nên tinh tế, vai trò người chị của Xiu đối với Giôn-xi càng thêm nổi bật. Và đối với người đọc, hình tượng Xiu thêm hấp dẫn. Rõ ràng, cùng với nhân vật cụ Bơ-men, nhân vật Xiu góp những sắc màu nhỏ nhẹ, trong sáng làm đẹp thêm bức tranh tình người bao la, kì diệu của câu chuyện Chiếc lá cuối cùng độc đáo.
Còn nhân vật Giôn-xi, hình tượng trung tâm của bức tranh đẹp ấy, thì góp đường nét màu sắc gì ? Cảnh ngộ của cô bé thật đáng thương. Cô bị bệnh nặng, lại nghèo nên thuốc tháng chắc cũng thiếu thốn. Do đó, cô mang tâm trạng yếu đuối gần như bất lực trước bệnh tật. Trong cô chỉ có một niềm trông đợi là chiếc lá cuối cùng trên cây thường xuân trước mặt kia lìa cành thì cô cũng đi xa. Nhưng khi nghe chị Xiu thì thẩm vừa như trách mắng, vừa như thở than “Em hãy nghĩ đến chị, nếu không có em… chị sẽ làm gì đây”, thì Giôn-xi như cũng cảm thấy tâm trạng cô đơn và thấm thía nỗi buồn thương khi nghĩ tới sợi dây ràng buộc mình với bạn và thế gian cứ lơi lỏng dần. Vào chính cái giây phút cô đơn, buồn thương nhất ấy, cô gái đã nhìn thấy chiếc lá thường xuân dũng cảm sau một đêm mưa bão vẫn bám riết vào cuống lá, vẫn kiên gan đậu trên tường…
Và dường như trong cô gái bỗng trỗi dậy một sức sống mới, một nghị lực mới. Cô nằm nhìn chiếc lá hồi lâu. Cái nhìn ấy dần dần hâm nóng trái tim yếu đuối giá lạnh của cô. Rồi cô gọi Xiu, cô tâm sự, hay cũng là một cách sám hối : “Có một cái gì đấy đã làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đó để cho em thấy rằng mình đã tệ như thế nào. Muốn chết là một tội”. Thế là Giôn-xi hồi lại dần dần. Cô thèm ăn cháo, muốn uống sữa, uống rượu và ao ước một ngày nào đó sẽ tiếp tục sáng tác, sẽ “được vẽ vịnh Na-plơ”. Cuối cùng, Giôn-xi đã khỏi bệnh, chiến thắng thần chết và chiến thắng những phút giây bi quan mềm yếu của tâm hồn. Nếu trong chiến công này, cụ Bơ-men và Xiu là người trao tặng, người dẫn dắt thì Giôn-xi là người được nhận, người chiến sĩ trực tiếp chiến đấu chống lại kẻ thù, chống lại cái chết. Từ tình thương của hai người bạn Bơ-men và Xiu, sức mạnh ngoại lực, nếu Giôn xi không có một nội lực cần thiết làm sao cô gái có thể giành chiến thắng ? Do đó, quá trình diễn biến tâm trạng, cũng có thể nói là quá trình đấu tranh bản thân của nhân vật Giôn-xi đã góp phần hoàn thiện bức tranh tình thương giữa con người với con người, tô đậm vẻ đẹp kì diệu của nhân vật cụ Bơ-men, làm sáng lên nét giản dị trong sáng của nhân vật Xiu. Nhà văn kết thúc câu chuyện bằng lời kể của Xiu mà không cần kể thêm Giôn-xi đã nghĩ gì, nói gì. Áng văn dừng lại, nhưng dư âm còn vương vấn…
Cùng với nghệ thuật khắc hoạ ba nhân vật với những đặc điểm tâm lí và hành động khác nhau đầy ấn tượng như chúng ta đã tìm hiểu và suy ngẫm ở trên, nhà văn O Hen-ri đã xây dựng được hai tình huống đảo ngược bất ngờ, rất thú vị. Thứ nhất : Từ đầu câu chuyện, Giôn-xi, cô hoạ sĩ trẻ, cứ như đang dần dần tiến đến cái chết. Nhưng cuối cùng, cô gái khoẻ lại, yêu đời, vươn dậy, chiến thắng bệnh tật, chiến thắng cái chết. Tinh huống thứ hai : Cụ Bơ-men đang khoẻ mạnh bình thường, ai ngờ đến cuối truyện ông cụ lại qua đời. Hai tình huống đảo ngược trái chiều nhau – một cụ già đi từ sự sống đến cái chết để dẫn dắt một cô gái từ cái chết trở lại với sự sống – đã được nhà văn kể lại thật tự nhiên, lô gích như sự tuần hoàn tự nhiên, lô gích của cuộc đời. Cả hai tình huống ấy đều liên quan tới bệnh sưng phổi và chiếc lá cuối cùng, đểu gắn kết với những vẻ đẹp của ba nhân vật. Tất cả những điều đó đem lại cho thiên truyện một dư vị khó quên.
Tóm lại, chỉ đọc mấy trang cuối truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của nhà văn Mĩ O Hen-ri, chúng ta thấy rõ : truyện được xây dựng bằng nhiều tình tiết hấp dẫn, sắp xếp chặt chẽ, khéo léo, khắc hoạ nhân vật rõ nét, kết cấu đảo ngược tình huống hai lần thật độc đáo và hấp dẫn. Nổi bật hơn tất cả là hình ảnh chiếc lá dũng cảm và chân dung những con người tuy nghèo khổ nhưng tình thương thì bao la, vô tận. Truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng là bài ca cảm động, giàu chất nhân văn ngợi ca tình người, rất đáng đọc, đáng suy ngẫm.
Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng – mẫu 2
Với Chiếc lá cuối cùng của nhà văn Mỹ O Hen-ri chúng ta như được bước vào thế giới của một xã hội đương thời nhiễu nhương. Trong cái xã hội nghèo nàn ấy có những người nghệ sĩ nghèo chứa chan tình nhân đạo. Họ thương yêu nhau, hi sinh chính bản thân của mình vì nhau. Với bút pháp nghệ thuật điêu luyện nhà văn đã phản ánh một cách cảm động đồng thời đã để lại một giá trị nghệ thuật cao cả. Tác giả đã bộc lộ một cách kín đáo, một cuộc sống tốt đẹp.
Tác giả đã kể về họ: những người họa sĩ nghèo khổ ở phía tây công viên Oa-sinh-tơn. Hai nữ họa sĩ trẻ tuổi Xiu và Giôn-xi mang đầy năng khiếu và cụ Bơ-men đã già nhưng chưa thành đạt trên con đường nghệ thuật. Mặc dù họ sống chật vật, ăn uống thiếu thốn nhưng họ vẫn thương yêu nhau tha thiết. Một tình bạn chứa chan mà chân thành. Hai người đã gặp nhau rất tình cờ. Họ trùng sở thích nên kết bạn. Xiu và Giôn-xi đã chứng tỏ tình bạn cao cả cửa mình qua cơn ốm nặng của Giôn-xi. Giôn-xi phải cảm ơn Xiu rất nhiều, có thể là không trả hết. Xiu không bỏ rơi bạn trong họan nạn mà còn làm việc hết sức mình lấy tiền nuôi mình và chữa bệnh cho bạn. Cô gạt bỏ hết sự yếu đuối động viên Giôn- xi can đảm vượt qua mọi thử thách. Cô đã chia sẻ những nỗi buồn niềm vui với bạn. Họ đã có một tình cảm cao đẹp.
Họ cảm thấy không thế thiếu tình cảm thiêng liêng đó. Xiu là một cô gái trong trắng, biết làm việc thiện không suy nghĩ nhỏ nhen hẹp hòi. Cô chỉ cầu mong điều lành đến với Giôn-xi, đó là khỏi bệnh và thực hiện ước muốn của mình để vẽ vịnh Na-Plơ. Chao ôi! Tình bạn quý giá biết bao. Cảm động hơn là tấm lòng nhân đạo của cụ Bơ- men. Cụ là hàng xóm với hai nữ nghệ sĩ. Khi nghe Xiu kể về tâm trạng tuyệt vọng của Giôn-Xi thì cụ vô cùng tức giận. Cụ mắng nhiếc Xiu và kêu lên: Trên đời này có người nào lại ngớ ngẩn chết vì những chiếc lá rụng từ cái dây leo đáng nguyền rủa ấy hử?. Cuối cùng cụ đã cứu sống được Giôn-xi, lấy lại niềm tin yêu của cuộc sống bằng Chiếc lá cuối cùng – một tác phẩm kiệt xuất của cụ. Nhưng chiếc lá đó chẳng bao giờ nó rung rinh hoặc lay động khi gió thổi. Cụ đã vẽ nó vào cái đêm đen, giữa mưa tuyết và giá lạnh, dưới ánh sáng một cái đèn bão.
Tác giả của bức tranh kiệt xuất ấy là người họa sĩ già bệnh tật. Bức vẽ cuối cùng của cụ đã đạt đỉnh cao trên con đường nghệ thuật mà trước kia cụ hằng mong ước. Và để tạo được tác phẩm kiệt xuất ấy cụ đã không ngần ngại đổi bằng chính cuộc sống của mình. Bức vẽ chiếc lá ấy chính là sản phẩm của tấm lòng thương yêu sâu sắc giữa con người với con người. Nó thể hiện một tình cảm chân thành xuất phát từ trái tim nhân đạo đầy tình thương bao la. Dưới ngòi bút của o Hen-ri, con quỷ bệnh tật đang rình rập để hòng tước đoạt niềm tin vào cuộc sống ở Giôn-xi đã bị cụ Bơ-men già gầy guộc đánh bại. Cụ đã trả lại màu xanh cho chiếc lá úa vàng, màu hồng cho đôi má Giôn-xi bệnh tật, trả lại niềm tin, nghị lực cho những người yếu đuối.
Đến lúc này nghệ thuật cần cho cuộc sống, hòa vào cuộc sống và phát huy hết sức mạnh kì diệu của nó. Chiếc lá cuối cùng không rụng, nó mãi mãi còn trên cái dây thường xuân. Giôn-xi đã trở lại với cuộc đời mà cụ Bơ- men ban cho. Cũng từ ấy cụ Bơ-men đã trút hơi thở cuối cùng sau khi thành công trên con đường nghệ thuật. Một hình ảnh làm rung động lòng người: Bơ-men đã trao sự sống của mình cho Giôn-xi. Người họa sĩ già ấy đã nhường hơi thở của mình cho tài năng trẻ tiếp tục sự nghiệp nghệ thuật của mình. Bơ-men đã phác họa nghệ thuật để sống mãi trong lòng người đọc. Cụ đã tạo cho màu xanh của chiếc lá thường xuân, tâm huyết của cụ.
Nó đã cứu sống cả mạng người. Chiếc lá cuối cùng trở thành niềm hy vọng của sự hồi sinh được dựng lên bằng tình bạn. Hai nhân vật Xiu và Bơ-men là hình ảnh tiêu biểu cho tình bạn bè, đồng loại. Họ luôn tỏa sáng trong tâm hồn người đọc. Trong sự nghèo khổ họ đã thương yêu nhau, đùm bọc lẫn nhau. Những hình ảnh, lòng thương ấy làm rung động lòng người. Những con người ấy chỉ mơ đến cuộc sống ấm no, đầy đủ nhưng chứa chan tình thương. Tình bạn bè cao đẹp trong sáng, lòng nhân ái bao la như trời xanh biển rộng. Qua đây tác giả O Hen-ri muốn gửi đến mọi người thông điệp về tình bạn tha thiết: con người phải biết thương yêu nhau, quan tâm lẫn nhau. Họ là những người bạn tốt không thể thiếu đối với chúng ta.
Tác phẩm đã toát lên một mong muốn khá giản dị nhưng sâu sắc: con người ngày một sống tốt đẹp hơn. Đó là ngụ ý sâu xa của nhà văn. Tố Hữu đã từng nói: người yêu người sống để yêu nhau. Không có con người, không có tình bạn thì cuộc sống chẳng có nghĩa. Những con người ấy, tình bạn ấy sẽ mãi là tấm gương để chúng ta học tập.
Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng – mẫu 3
Kết thúc truyện ngắn "Chiếc lá cuối cùng" của tác giả O-hen-ri người đọc không chỉ lưu lại trong trí óc mình về một bức tranh kiệt tác vẽ về chiếc lá cuối cùng mà còn lắng đọng tâm hồn vào những giá trị nhân đạo sâu sắc của câu chuyện. Giá trị nhân đạo ấy xuất phát từ chính tình bạn, tình yêu thương và hơn hết đó là tình người trong cuộc sống. Cả ba nhân vật: Xiu, Giôn-xi và cụ Bơ-men tuy là hai thế hệ khác nhau nhưng cùng chung một nghề nghiệp và chung một hoàn cảnh. Họ là những người họa sĩ nghèo, sống khốn khổ tại một khu nhà trọ nhỏ, cuộc sống sinh hoạt của họ thiếu thốn và luôn phải làm việc cật lực kiếm tiền.
Trong hoàn cảnh ngặt nghèo ấy cô bé Giôn-xi còn mắc bệnh nặng, mất hết niềm tin và nghị lực sống, cô đã buông xuôi và lựa chọn cách nằm chờ chết trên giường bệnh, cô nằm đợi chiếc lá cuối cùng trên cây thường xuân kia rụng xuống rồi cô cũng sẽ chết. Thế nhưng kiệt tác để đời cũng là tác phẩm cuối cùng của cụ Bơ-men đã cứu vớt tâm hồn và cuộc sống của cô, trong đêm mưa bão tuyết người họa sĩ già biết chắc chiếc lá kia không thể trụ lại, cụ đã âm thầm lặng lẽ xách đèn và vẽ bức tranh chiếc lá trong đêm mưa gió ấy để mang đến động lực sống cho Giôn-xi. Chính vì muốn cứu cô gái trẻ Giôn-xi mà cụ Bơ-men đã chết vì sưng phổi, cụ đã đánh đổi cả tính mạng của mình để mang đến sự sống mới cho người khác.
Trước hết, giá trị nhân đạo dễ nhận thấy nhất trong truyện chính ở tình bạn đẹp giữa Xiu và Giôn-xi, khi Giôn-xi ốm nặng Xiu là người chăm sóc, động viên và luôn bên cạnh. Yêu thương và đùm bọc nhau giống như những người thân trong gia đình, họ coi nhau như chị em và sẻ chia khó khăn với nhau, cùng dìu nhau vượt lên nghịch cảnh. Càng trong hoàn cảnh khốn khó ta càng thấy tình bạn ấy cao đẹp biết bao, đáng trân trọng biết bao, nhưng cái đáng ca ngợi hơn chính là tình người, lòng nhân ái giữa những con người với nhau.
Cụ Bơ-men và Giôn-xi sống cùng trong khu trọ nghèo của những người nghệ sẽ, chỉ quen biết nhau nhưng cụ lại có thể hết lòng yêu thương, thậm chí hy sinh tính mạng của mình để đổi lấy niềm tin vào cuộc sống cho Giôn-xi. Có thể thấy kết truyện vừa có hậu lại vừa không có hậu, tuy Giôn-xi đã tiếp tục sống và mơ ước nhưng lại mất đi cụ Bơ-men. Ở đây ta thấy tác giả đã bày tỏ sự cảm thông của mình đối với từng nhân vật, Giôn-xi được sống tiếp còn cụ Bơ-men để lại một kiệt tác nghệ thuật, đó là thứ mà cụ đã dành cả cuộc đời để tìm kiếm và thực hiện, cuối cùng đã hoàn thành được tâm nguyện.
Chính cụ và kiệt tác "Chiếc lá cuối cùng" của cụ đã khẳng định rất rõ ràng về sức mạnh của tình yêu thương, tình yêu thương của con người có thể chữa lành mọi vết thương, giúp con người vượt lên nghịch cảnh và có thêm niềm tin, hy vọng vào cuộc sống.
Quả thực, đọc truyện ngắn "Chiếc lá cuối cùng" ta không tránh khỏi sự xúc động, càng xúc động bao nhiêu ta càng thấm nhuần giá trị nhân đạo của tác phẩm bấy nhiêu. Tác giả O-hen-ri không cần khoa trương, phô diễn nhưng vẫn cho người đọc thấy được mong muốn hướng đến những điều tốt đẹp cho con người, mong cho cuộc sống của mọi người đều được tốt đẹp.
Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng – mẫu 4
Là một tác phẩm thuộc trào lưu văn học hiện thực ở Mĩ đầu thế kỉ XX, Chiếc lá cuối cùng của O Hen-ri không chỉ đem đến cho ta những hiểu biết về xã hội Mĩ thời điểm tác phẩm ra đời. Chiếc lá cuối cùng còn giúp ta cảm nhận được chất nhân đạo cao cả được tác giả tập trung thể hiện. Giữa xã hội đồng tiền ngự trị, chi phối các giá trị của con người thì câu chuyện cảm động về ba họa sĩ nghèo thực sự là một thứ ánh sáng của niềm hi vọng về tình người trên hết là ước muốn con người sống với nhau ngày một đẹp hơn.
Trong truyện tác giả đã kể lại cuộc sống nghèo khổ của các họa sĩ Mĩ tại một khu nhỏ phía tây công viên Oa-sinh-tơn. Đó là hai nữ họa sĩ trẻ tuổi Xiu và Giôn-xi cùng với Bơ-men, một họa sĩ già suốt đời chưa bao giờ thành đạt. Họ sống rất vất vả và chật vật trong những gian buồng chật chội, sát mái, ăn uống thiếu thốn, làm việc cật lực để kiếm tiền. Nhưng về mặt tinh thần, về đời sống tình cảm họ lại là những người có tình yêu thương sâu sắc đằm thắm.
Ở đây chúng ta cảm nhận được tình bạn vô cùng chân thành và cảm động. Đó là tấm tình trong sáng thủy chung của Xiu đối với Giôn-xi. Hai người từ hai vùng đất rất xa nhau cùng tới Oa-sinh-tơn. Vì có cùng sở thích về nghệ thuật, về rau xà lách, về ống tay áo ngoài nên Xiu và Giôn-xi đã trở nên thân thiết nhau. Khi Giôn-xi bị ốm nặng, ta mới hiểu hết tình bạn thắm thiết của Xiu. Cô đã không bỏ rơi bạn, ngược lại Xiu còn làm việc hết sức mình để kiếm tiền nuôi bản thân và chạy chữa cho Giôn-xi. Cô đã trông nom, săn sóc từng li cho Giôn- xi, lúc nào Xiu cũng cố gắng động viên để Giôn-xi tin tưởng mình sẽ hết bệnh. Cô đã tìm mọi cách để gạt bỏ sự yếu đuối của bạn. Với những việc làm của Xiu, cô đã chứng tỏ cho ta thấy được một tình bạn thủy chung: Lúc vui buồn đều có nhau, lúc hoạn nạn lại không thể thiếu nhau, không thể bỏ rơi nhau. Xiu hoàn toàn không vụ lợi, không gợn một suy tính nhỏ nhen, Xiu chỉ có một ước nguyện duy nhất: Giôn-xi khỏi bệnh, tiếp tục ước mơ vẽ bức tranh về vịnh Na- plơ. Những người bạn như thế thật đáng quý, đáng trân trọng xiết bao!
Cảm động hơn, Chiếc lá cuối cùng còn là bài ca ca ngợi tấm lòng nhân đạo cao cả của cụ Bơ-men. Cụ là một họa sĩ già đã ngoài sáu mươi tuổi nhưng chưa thành đạt trên con đường nghệ thuật. Chỉ là người ở cùng nhà với hai nữ họa sĩ, nhưng khi biết tin Giôn-xi bị bệnh, lại đang trong trạng thái tâm lí tuyệt vọng không muốn sống nữa, cụ đã vô cùng bực tức, la mắng Xiu và giận dữ kêu lên: Trên đời này có người nào lại ngớ ngẩn chết vì những chiếc lá rụng từ cái dây leo đáng nguyền rủa ấy hử? Bác vẫn chưa hề nghe thấy chuyện như vậy… Và cuối cùng người họa sĩ già đã tìm ra viên thần dược lấy lại niềm tin yêu cuộc sống cho Giôn-xi: Bức tranh vẽ chiếc lá cuối cùng. Đây là bức tranh đặc biệt nhất trong các bức tranh được vẽ trên thế giới. Nó được vẽ trong đêm đen, giữa mưa tuyết và giá lạnh, dưới ánh sáng một cái đèn bão.
Người vẽ nó là một họa sĩ già đã bao nhiêu năm qua ao ước vẽ được một kiệt tác, nhưng sáu mươi năm đã qua, chưa bao giờ cụ thành công, mãi mãi cụ vẫn chỉ là cái bóng mờ của nghệ thuật. Vậy mà hôm nay, với bức vẽ cuối cùng của cụ, bức vẽ chiếc lá giữa đêm mưa lạnh rét mướt lại đưa cụ tới đỉnh cao của nghệ thuật, được thừa nhận là kiệt tác. Bức vẽ chiếc lá ấy chính là sản phẩm của tấm lòng yêu thương sâu sắc con người của cụ. Nó thể hiện một tình cảm chân thành xuất phát từ trái tim nhân đạo đầy tình người bao la. ở đầu ngọn bút không phải là màu vẽ mà là sự sống của cụ, là máu của con tim, là sự tha thiết giành lại sự sống cho Giôn-xi từ tay thần chết.
Đến lúc này nghệ thuật đã nhập vào với cuộc đời và phát huy hết sức mạnh kì diệu của nó. Chiếc lá không rụng. Giôn-xi đã trở lại với cuộc đời và cụ Bơ-men đã trút hơi thở cuối cùng khi hoàn thành kiệt tác ấy. Một hình ảnh làm rung động lòng người. Có thể nói cụ Bơ- men đã trao lại sự sống của mình cho Giôn-xi. Người họa sĩ già ấy đã nhường hơi thở cho tài năng trẻ tiếp tục sự nghiệp nghệ thuật của mình. Cụ Bơ-men đã để lại trong lòng người đọc niềm cảm kích chân thành.
Cả hai nhân vật Xiu và Bơ-men là hình ảnh tiêu biểu cho tình thương yêu bạn bè, đồng loại. Cuộc đời của họ, hành động của họ luôn tỏa sáng trong tâm hồn người đọc. Thế mới biết trong sự nghèo khổ cùng cảnh ngộ người ta đã thương nhau như thế nào! Chính những hình ảnh đẹp ấy đã có sức chinh phục và lay động lòng người, hướng con người tới một cuộc sống trong sáng đầy tình nghĩa không gợn những tính toán nhỏ nhen. Hai con người ấy là biểu tượng của tình bạn cao đẹp thủy chung, của lòng nhân đạo cao cả. Bơ-men đã nằm xuống nhưng trong lòng mọi thế hệ người đọc, ông vẫn còn sống mãi cùng kiệt tác của mình. Qua tác phẩm, với bức tranh Chiếc lá cuối cùng nhà văn đã thể hiện kín đáo tâm sự của mình, O Hen-ri muốn gởi tới người đọc lời kêu gọi chân tình: con người hãy yêu thương nhau.
Đúng như nhà thơ Tố Hữu đã từng nói: Người yêu người sống để yêu nhau, Chiếc lá cuối cùng là truyện ngắn thể hiện được tình yêu thương ấy. Tác phẩm đã toát ra một mong muốn sâu sắc: con người ngày một sống tốt đẹp hơn. Đó là vấn đề mà những nghệ sĩ chân chính quan tâm nhất. Rõ ràng văn học đã đưa chúng ta đến cái thiện, cái đẹp, nó giúp ta bỏ đi cái xấu, cái hèn luôn ẩn chứa trong ta. “Văn học là nhân học” đúng như lời của nhà văn M.Gooc-ki.
Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng – mẫu 5
Trong một xã hội nhiễu nhương, đồng tiền ngự trị trên tất cả, con người dường như sống chẳng còn tình người. Nhưng chính trong cuộc sống ấy lại có những con người tuy nghèo khổ mà biết thương yêu nhau, hi sinh vì nhau. Điều đó được nhà văn O Hen-ri phản ảnh lại một cách cảm động trong tác phẩm Chiếc lá cuối cùng. Nếu nói văn học là nhân học như Mác-xim Go-rơ-ki thì quả thật Chiếc lá cuối cùng đã để lại một cách kín đáo mong muốn của mình: con người ngày một sống tốt đẹp hơn. Đây chính là tác phẩm để lại trong em niềm xúc động sâu sắc nhất.
Trong truyện tác giả đã kể lại cuộc sống nghèo khổ của các họa sĩ Mỹ tại một khu nhỏ phía tây công viên Oa-sinh-tơn. Đó là hai nữ họa sĩ trẻ tuổi Xiu và Giôn-xi cùng với Bơ-men, một họa sĩ già suốt đời chưa bao giờ thành đạt. Họ sống rất vất vả và chật vật trong những gian buồng chật chội, sát mái, ăn uống thiếu thốn làm việc cật lực để kiếm tiền. Nhưng về mặt tinh thần, về đời sống tình cảm họ lại là những người có tình yêu thương sâu sắc đằm thắm.
Ở đây chúng ta cảm nhận được tình bạn vô cùng chân thành và cảm động. Đó là tấm tình trong sáng thuỷ chung của Xiu đôi với Giôn-xi. Hai người từ hai vùng đất rất xa nhau cùng tới Oa- sinh-tơn. Vì có cùng sở thích về nghệ thuật, về rau xà lách, về ống tay áo ngoài nên Xiu và Giôn-xi đã trở nên thân thiết nhau. Khi Giôn-xi bị ốm nặng, ta mới hiểu hết tình bạn thắm thiết của Xiu. Cô đã không bỏ rơi bạn, ngược lại Xiu còn làm việc hết sức mình để kiếm tiền nuôi bản thân và chạy chữa cho Giôn-xi. Cô đã trông nom, săn sóc từng li cho Giôn-xi, lúc nào Xiu cũng cố gắng động viên để Giôn-xi tin tưởng mình sẽ hết bệnh. Cô đã tìm mọi cách để gạt bỏ sự yếu đuối của bạn. Với những việc làm của Xiu, cô đã chứng tỏ cho ta thấy được một tình bạn thuỷ chung: Lúc vui buồn đều có nhau, lúc hoạn nạn lại không thể thiếu nhau, không thể bỏ rơi nhau. Xiu hoàn toàn không vụ lợi, không gợn một suy tính nhỏ nhen, Xiu chỉ có một ước nguyện duy nhất: Giôn-xi khỏi bệnh, tiếp tục ước mơ vẽ bức tranh về vịnh Na-plơ.Những người bạn như thế thật đáng quý, đáng trân trọng xiết bao!
Cảm động hơn, Chiếc lá cuối cùng còn là bài ca ca ngợi tấm lòng nhân đạo cao cả của bác Bơ-men. Bác là một họa sĩ già đã ngoài sáu mươi tuổi nhưng chưa thành đạt trên con đường nghệ thuật. Bác chỉ là người ở cùng nhà với hai nữ họa sĩ. Nhưng khi biết tin Giôn-xi bị bệnh, lại đang trong trạng thái tâm lí tuyệt vọng không muốn sống nữa, bác đã vô cùng bực tức, Bác la mắng Xiu và giận dữ kêu lên: Trên đời này có người nào lại ngớ ngẩn chết vì những chiếc lá rụng từ cái dây leo đáng nguyền rủa ấy hử? Bác vẫn chưa hề nghe thấy chuyện như vậy… Và cuối cùng bác đã tìm ra viên thần dược lấy lại niềm tin yêu cuộc sống cho Giôn-xi: Bức tranh vẽ chiếc lá cuối cùng. Đây là bức tranh đặc biệt nhất trong các bức tranh được vẽ trên thế giới. Nó được vẽ trong đêm đen, giữa mưa tuyết và giá lạnh, dưới ánh sáng một cái đèn bão.
Người vẽ nó là một họa sĩ già bệnh tật ốm yếu đang trong cơn viêm phổi nặng. Người họa sĩ ấy đã bao nhiêu năm tháng qua ao ước vẽ được một kiệt tác. Nhưng sáu mươi năm đã qua, chưa bao giờ ông thành công, mãi mãi ông vẫn chỉ là bóng mờ của nghệ thuật. Thế mà hôm nay, với bức vẽ cuối cùng của ông, bức vẽ chiếc lá giữa đêm mưa lạnh rét mướt lại đưa ông tới đỉnh cao của nghệ thuật, được thừa nhận là kiệt tác. Bức vẽ chiếc lá ấy chính là sản phẩm của tấm lòng yêu thương sâu sắc con người của ông. Nó thể hiện một tình cảm chân thành xuất phát từ trái tim nhân đạo đầy tình người bao la. Ở đầu ngọn bút không phải là màu vẽ mà là sự sống của ông, là máu của con tim, là sự tha thiết giành lại sự sống cho Giôn-xi từ tay thần chết.
Đến lúc này nghệ thuật đã nhập vào với cuộc đời và phát huy hết sức mạnh kì diệu của nó. Chiếc lá không rụng. Giôn-xi đã trở lại với cuộc đời và Bơ-men đã trút hơi thở cuối cùng sau khi thành công kiệt tác ấy. Một hình ảnh làm rung động lòng người. Có thể nói Bơ-men đã trao lại sự sống của mình cho Giôn-xi. Người họa sĩ già ấy đã nhường hơi thở cho tài năng trẻ tiếp tục sự nghiệp nghệ thuật của mình. Bác Bơ-men đã để lại trong lòng người đọc niềm cảm kích chân thành.
Cả hai nhân vật Xiu và Bơ-men là hình ảnh tiêu biểu cho tình thương yêu bạn bè, đồng loại. Cuộc đời của họ, hành động của họ luôn tỏa sáng trong tâm hồn người đọc. Thế mới biết trong sự nghèo khổ cùng cảnh ngộ người ta đã thương nhau như thế nào! Chính những hình ảnh đẹp ấy đã có sức chinh phục và lay động lòng người, hướng con người tới một cuộc sống trong sáng đầy tình nghĩa không gợn những tính toán nhỏ nhen. Hai con người ấy là biểu tượng của tình bạn cao đẹp thủy chung, của lòng nhân đạo cao cả. Bơ-men đã nằm xuống nhưng trong lòng mọi thế hệ người đọc, ông vẫn còn sống mãi cùng bức kiệt tác của mình. Qua tác phẩm, với bức tranh Chiếc lá cuối cùng nhà văn đã thể hiện kín đáo tâm sự của mình, O Hen-ri muốn gởi tới người đọc lời kêu gọi chân tình: con người hãy yêu thương nhau, hãy quan tâm đến nhau.
Đúng như nhà thơ Tố Hữu đã từng nói: Người yêu người sống để yêu nhau, Chiếc lá cuối cùng là truyện ngắn thể hiện được tình yêu thương ấy. Tác phẩm đã toát ra một mong muốn sâu sắc: con người ngày một sống tốt đẹp hơn. Đó là vấn đề mà những nghệ sĩ chân chính quan tâm nhất. Rõ ràng văn học đã đưa chúng ta đến cái thiện, cái đẹp, nó giúp ta bỏ đi cái xấu, cái hèn luôn ẩn chứa trong ta.