Suy nghĩ về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ năm 2023
Suy nghĩ về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ năm 2023
Bài văn Suy nghĩ về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ gồm dàn ý chi tiết, 5 bài văn phân tích mẫu được tuyển chọn từ các bài văn phân tích đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài kiểm tra, bài thi môn Ngữ văn 8.
Đề bài: Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu trong đoạn trích "Tức nước vỡ bờ".
A/ Dàn ý chi tiết
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nhân vật cần phân tích: Ngô Tất Tố là nhà văn xuất sắc viết về đề tài người nông dân trước Cách mạng Tháng Tám. Những tác phẩm của ông được giới phê bình đánh giá cao, vừa giàu giá trị nội dung và đặc sắc về nghệ thuật viết truyện. Trong đoạn trích " Tức nước vỡ bờ" trong tiểu thuyết " Tắt đèn", nhà văn đã xây dựng thành công nhân vật chị Dậu.
II. Thân bài
a. Hoàn cảnh sáng tác
- Tác phẩm "Tắt đèn" viết năm 1936, xã hội bấy giờ là thực dân nửa phong kiến, người nông dân phải chịu nhiều tầng áp bức. Đời sống nhân dân đói khổ, bần cùng, đất nước lầm than, nô lệ.
- Nhân vật chị Dậu đã góp một mảng màu chân thực vào hiện thực bấy giờ, đồng thời còn thể hiện chiều sâu tư tưởng và nhân đạo của nhà văn.
b. Phân tích nhân vật chị Dậu
* Số phận
- Có hoàn cảnh đáng thương.
- Là người nông dân nghèo, vì gánh nặng sưu thuế mà phải bán hết gánh khoai, ổ chó và đứa con gái là cái Tý cho ông Nghị Quế nhưng chỉ đủ nộp sưu cho chồng. Chú Hợi là anh ruột của anh Dậu chết từ năm ngoái nhưng cũng không tránh khỏi nộp sưu.
- Anh Dậu đang ốm nặng, bọn cường trói anh suốt ngày đêm sai tay chân vác anh về như cái xác chết rũ rượi. Mọi gánh nặng đổ dồn lên vai chị.
- Gánh nặng sưu thuế đã dồn người nông dân vào cuộc sống lầm than cơ cực. Đó là giai đoạn với bao nỗi kinh hoàng khi bọn thực dân phong kiến ra sức bóc lột nông dân với đủ mọi thứ thuế. Chị Dậu cũng như bao người nông dân bấy giờ là nạn nhân trong xã hội ấy.
* Phẩm chất
- Người vợ, người mẹ giàu tình yêu thương
+ Trong cơn nguy kịch, chị Dậu tìm đủ mọi cách để cứu chồng. Khi chồng ốm, trước hàng loạt những tiếng trống thúc thuế, chị vẫn khẩn khoản, thiết tha mời chồng: " Thầy em cố gắng ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột". Hành động ấy chứa đựng biết bao tình yêu thương vỗ về.
+ Dũng cảm chống lại bọn cường hào để bảo vệ chồng
+ Bán đi đứa con mình đứt ruột đẻ ra, lòng người mẹ nào không đau cho được. Lòng chị chắc hẳn luôn quặn thắt luôn nhói đau.
- Người phụ nữ đúng mực có cương có nhu.
+ Lúc đầu khi bọn cường hào tới chị hạ mình van xin, lúc thì run run xin khất, lúc thì thiết tha xin chúng xem lại
+ Tên cai lệ " Rút dây thừng trong tay anh hậu cần lý trưởng, hắn chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu để bắt trói điệu anh ra đình". Tức nước vỡ bờ, để bảo về chồng cũng như nhân phẩm chị đã kiên quyết chống cự: " Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem". Cách xưng hô thay đổi. Từ chỗ nhún mình chị đã vùng lên. Tên cai vệ bị chị Dậu túm cổ ấn dúi ra cửa, ngã chỏng queo trên mặt đất.Tên hậu cận lý trưởng bị chị túm túc lăng cho một cái, ngã nhào ra thềm. Chị nói " Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được. Con giun xéo mãi cũng quằn, bị dồn tới bước đường cùng người nông dân phải tự giải thoát cho mình.
* Đánh giá
- Với nghệ thuật xây dựng nhân vật, sử dụng vốn từ ngữ giàu có sinh động, Ngô Tất Tố đã xây dựng thành công nhân vật chị Dậu, qua đó thể hiện chiều sâu nhân đạo cũng như triết lý: Có áp bức thì sẽ có đấu tranh.
III. Kết bài
- Cảm nhận của em về nhân vật: Chị Dậu đã để lại trong ta những ấn tượng sâu sắc. Qua đó ta thêm hiểu hơn về cuộc sống của người nông dân trong xã hội cũ đồng thời ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của họ.
B/ Sơ đồ tư duy
C/ Bài văn mẫu
Suy nghĩ về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ – mẫu 1
“Tắt đèn” là bản tố khổ chân thật, sâu sắc, chan hòa nước mắt và lòng căm phẫn của người nông dân nghèo bị bóc lột, đàn áp. Có lẽ chính nhà văn Ngô Tất Tố cũng không cầm được nước mắt. Cái đáng quý ở nhà văn này là thái độ phẫn nộ với giai cấp bóc lột và lòng thương người mênh mông!
“Tức nước vỡ bờ” vốn là câu tục ngữ mang tính quy luật tự nhiên (nước đã dâng lên cao thì bờ ngoài vỡ nhưng cũng có ý nghĩa xã hội sâu sắc..., Người ta đã vận dụng câu tục ngữ này làm tiêu đề, tên gọi của một đoạn trích hết sức điển hình trong tiểu thuyết Tắt đèn.
Tình huống dẫn đến cảnh “Tức nước vỡ bờ” có ngay ở giữa nhà Lí trưởng, chị Dậu, nạn nhân trực tiếp của cái thuế thân quái gở kia đã uất nghẹn kêu lên:
“Ối trời ơi! Tôi bán cả con lẫn chó và hai gánh khoai mới được hai đồng bảy bạc. Tưởng rằng đủ tiền nộp sưu cho chồng, thì chồng khỏi bị hành hạ đêm nay. Ai ngờ lại còn suất sưu của người chết nữa! Khốn nạn thân tôi! Trời ơi! Em tôi chết rồi còn phải đóng sưu hở trời?...”
Như thế là hoàn cảnh đưa đến cảnh “tức nước” là do những trận bão tố từ cái chính sách thuế thân quái gở của bọn thực dân Pháp và những thủ đoạn bóc lột trắng trợn của gia đình Nghị Quế, và hành động đánh trói dã man của bọn lính tráng, tuần đinh, người nhà tên Lí trưởng dội xuống đầu chị Dậu!
Chúng dồn chị đến con đường cùng, khi anh Dậu bị ném ở đình về nằm khóc con, khóc em, khóc số phận mình. Nhưng chị Dậu đã khuyên giải “Thịt người tanh không ai ăn được, thầy em cứ yên tâm nằm nghỉ không phải lo lắng gì cả”.
Như vậy là mức nước đã dâng lên rất cao, cái thời điểm “vỡ bờ” chỉ còn chờ đợi từng giây phút. Người đàn bà ấy đã phải chịu nỗi đau đứt ruột vì phải bán đàn chó và bán con đi mà vẫn không giải quyết được nạn sưu thế. Nhất là khi bọn chúng vất anh Dậu về nhà chỉ còn như cái xác chết, người hàng xóm cho bát gạo, chị nấu cháo vội để “cứu chồng” (bát cháo lúc này vừa là bát cơm vừa là chén thuốc). Nỗi lo của chị như vừa lắng dịu xuống một chút, vì anh Dậu vừa tỉnh lại, run rẩy cất bát cháo vào miệng định ăn thì chúng sầm sập tiến vào nhà, trong tay là roi song, dây thừng, hình ảnh chúng như bọn quỷ dữ từ âm phủ hiện về chúng hét “Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau!”.
Thế là cái giọng khàn khàn chỉ hút xác thuốc phiện đã dập tắt ngay sự yên ổn của chị Dậu và hơi tàn của anh Dậu! Anh “lăn đùng ra đó, không nói được câu gì”. Trước tình cảnh ấy, chúng chẳng có chút gì mủi lòng mà còn quát mắng, chửi bới, đe dọa chị Dậu. Chúng gọi chị là “mày” xưng “cha” rồi xưng “ông” với chị. Chúng dọa “dỡ nhà” và “trói cổ anh Dậu điệu ra đình”! Cuối cùng tên cai lệ giật phắt cái dây thừng trong tay người nhà Lí trưởng sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu. Đểu cáng và tàn ác hơn nữa, hắn “bịch vào ngực chị mây bịch” và tát vào mặt chị. Thái độ của chị Dậu đã căm giận lắm, nhưng để bảo vệ chồng, chị van xin, ngăn cản, đỡ đòn cho chồng. Mỗi lần chị lùi lại van xin, tên cai lệ càng hung hăng thêm. Vừa đánh, vừa chửi hắn nhảy đến cạnh anh Dậu. Hành động và cử chỉ của tên tay sai mạt hạng chính là ngọn gió gây nên cảnh “tức nước vỡ bờ”. Bão táp đã đến độ con bờ phải “vỡ”. Sau cái tát vào mặt chị và thêm những lời nói thô lỗ, khốn nạn của hắn như: “mày định nói cha mày nghe đấy à”, “trói cổ thằng chồng lại”. Chị không chịu được nữa bèn túm lấy cổ hắn dúi ra cửa, hắn “ngã chỏng quèo trên mặt đất, miệng lảm nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu”!
Như vậy, chị Dậu là biểu tượng cho những đợt sóng cồn, nước cả có sức mạnh công phá con bờ. Và bọn lính tráng, tay sai chỉ cậy sức mạnh ở cường quyền, bạo lực, còn bản chất của chúng thì hèn yếu, từ cái dáng hình bề ngoài đến lòng dạ bên trong!
Tình huống xảy ra như không thể ngờ chị Dậu lại chống cự mạnh mẽ đến như thế! Lúc đó chị đang tập trung nói ý nghĩ và cử chỉ là an ủi chồng. “Thầy em cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột” thì bọn cai lệ dẫn xác vào. Mặc cho chúng quát tháo chị vẫn dịu dàng van xin chúng bằng những lời có tình, có lí: “Nhà cháu đã túng lại phải đóng cả suất sưu cho chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bê tiền sưu của nhà nước đâu”... Nếu những con người có lương tri nhìn cái gia cảnh ấy, con người ấy ai nỡ đầy đọa đến bước đường cùng? Nhưng bọn này là tay sai, ở chúng không có khái niệm “tình thương người” nên chúng chỉ biết ăn nói thô tục, quát tháo ầm ĩ, đánh người bừa bãi, chúng có biết đâu rằng có giết vợ chồng chị đi thì cũng không còn đồng xu nào nộp suất sưu vô lí nữa. Chị gọi chúng là “ông” và tự xưng là “cháu” và đã hai lần chị xin chúng: “Hai ông làm phúc cho nhà cháu khất”... “Nhà cháu đã không có, xin ông xem lại... “ Như vậy một bên là cố gắng kìm nén, một bên cứ cậy thế chính quyền, luật pháp mà mắng chửi, xô người đến con đường cùng.
Cho nên tình huống đã trở nên không thể nào khác là “cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng”. Sau khi bị tên cai lệ đánh và hắn đe dọa không tha anh Dậu, chị Dậu vùng lên trở thành người đàn bà đanh đá, quyết liệt chống lại bọn chúng: từ chỗ xưng “cháu” với “ông” chị gọi chúng là “mày” và xưng “bà” nói những câu áp đảo lại chúng: “Ông không được phép”, “Mày trói ngay chồng bà đi bà cho mày xem”. Nói là làm, chị đã đánh ngã cả hai thằng cả hai tên “đại diện” cho sự thống trị khốn nát nhất.
Khi nghe chồng than thở và can ngăn chị đã nói một câu chứng tỏ lòng căm thù của những người bị áp bức bóc lột đã lên đến tột đỉnh: “Thà ngồi tù. Để cho chúng làm tình, làm tội mãi, không chịu được”. Câu nói là sự thách thức tất cả, không còn sợ gì nữa!
Qua đoạn trích trên đây ta thấy nhà văn đã cắt nghĩa bằng hành động của chị Dậu một quy luật xã hội “ở đâu có áp bức thì ở đó có đấu tranh”. Vì vậy như trên đã nói, câu tục ngữ “tức nước vỡ bờ” có ý nghĩa về mặt quy luật tự nhiên, và cũng có ý nghĩa sâu sắc về mặt xã hội.
Vì thế nhà văn Nguyễn Tuân đã từng nhận xét: “Cách viết lách như thế, cách dựng truyện như thế, không phải là phát động quần chúng nông dân chống quan Tây, chống vua ta còn là cái gì nữa?”. Quả thực trong chương này, chị Dậu đã nổi loạn chống lại bọn tay sai là bọn cường hào, nanh vuốt của bọn thống trị thực dân, phong kiến. Viết đoạn này Ngô Tất Tố tuy chưa hoàn tất nhân vật chị Dậu, nhưng nhà văn đã tô điểm thêm cho nhân vật của mình ngoài cái đẹp về hình thức, tâm hồn, tính cách, còn có vẻ đẹp cứng cỏi trong đấu tranh, một vẻ đẹp đáng quý biết bao.
Nét sắc sảo trong đoạn trích là nhà văn đã dựng được những tình huống để các nhân vật phát triển hết tính cách của mình, các nhân vật chính diện cũng như nhân vật phản diện. Nhân vật chị Dậu là nhân vật điển hình là người phụ nữ đẹp đẽ, mạnh khoẻ, để lại ấn tượng khó quên trong lòng người đọc.
Suy nghĩ về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ – mẫu 2
“Tắt đèn” là một tác phẩm đặc sắc của nhà văn Ngô Tất Tố phản ánh về đời sống của nông dân Việt Nam trong những năm bị thực dân Pháp đay nghiến xâm lược. Tuy chịu nhiều khổ đau vì bị áp bức, bóc lột nhưng người nông dân dưới con mắt của Ngô Tất Tố vẫn sẵn sàng đứng lên để chống lại cường hào áp bác. Và điều đó được thể hiện rõ qua đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” mà tiêu biểu là với hình ảnh của nhân vật chị Dậu.
Nhân vật chị Dậu trong “Tức nước vỡ bờ” đã lột tả bộ mặt của xã hội lúc bấy giờ vô cùng tàn ác. Một mùa sưu cao thuế nặng, bóc lột tới tận xương tủy của người nông dân khiến họ không còn lối thoát phải vùng lên đấu tranh đòi sự sống cho mình. Bởi mọi sự nhẫn nhịn, chịu đựng lúc này đều là vô nghĩa, buộc lòng người dân phải vùng lên để phản kháng lại sự bóc lột của chế độ lúc bấy giờ. Mở đầu trích đoạn “Tức nước vỡ bờ”, chị Dậu đón anh Dậu chồng mình về nhà sau bao ngày bị giam cầm ngoài đình làng vì không có tiền nộp thuế thân. Người anh Dậu sau những trận đòn roi chỉ còn da bọc xương xanh xao vàng vọt. Giữa thời kỳ đói khổ nghèo khó đó người phụ nữ như chị Dậu phải biến thành người trụ cột cho gia đình vừa lo cho chồng, chăm sóc ba đứa con thơ. Chị Dậu chạy vạy khắp nơi để lo cho đủ xuất thuế thân của chồng mình, lo cho anh được về nhà thuốc thang.
Những tưởng thế là thoát tội nhưng than ôi bọn quan lại đó lại tới nhà đòi bắt anh Dậu đi vì suất thuế của người em trai chồng chết từ tháng giêng nhưng vẫn phải nộp thuế. Không chỉ bóc lột người sống bọn quan lại, đại diện của tầng lớp bóc lột mất tính người đó còn định ăn của cả người chết. Vì người chết mà người sống phải khốn đốn, cùng cực khốn khổ. Nhân vật chị Dậu cho chúng ta suy nghĩ là người phụ nữ vô cùng chịu thương chịu khó, chị thương chồng thương con, mong muốn tìm đủ mọi cách để cứu chồng. Trong gia đình có gì đáng giá chị đều bán đi để lo suất thuế thân cho anh Dậu những mong cứu anh qua cảnh khốn cùng này. Chị Dậu bán chó mẹ và một đàn chó con chỉ được hơn một đồng, rồi chị không còn cách nào khác chị Dậu buộc lòng bán đứa con gái đầu lòng của mình mới có 6-7 tuổi cho người ta làm giúp việc kiếm thêm tiền chuộc chồng khỏi cảnh tù tội, bị đánh đập mỗi ngày. Lòng người mẹ thật xót xa khi phải mang con mình đi bán cho người ta. Khi nghe những lời con bé van xin mình, chị chỉ biết khóc, bởi chị đã bị dồn tới đường cùng. Chị van xin con bé “Con có thương thầy thương u?” con bé chỉ mới 6-7 tuổi thôi nhưng nó dường như già trước tuổi. Nó biết mình không thể nào thoát cảnh bị bán nên chỉ cam phận đi theo mẹ sang nhà Nghị Quế.
Lo chạy vạy khắp nơi bán cả đàn chó, bán cả con mới đủ tiền cho chồng về nhà vậy mà giờ đây chị Dậu phải đối diện với việc anh Dậu lại bị trói bắt đi vì suất thuế của người em đã chết. Chị van xin chúng tha cho chồng chị, chị xưng ông- con với chúng nó, thể hiện một cái nhìn nhún nhường, xuống nước của một người dân thấp cổ bé họng trong xã hội. Nhưng chúng không có tính người cũng không có lòng thương, chúng vẫn nhăm nhe bắt anh Dậu đi. Chị Dậu không còn cách nào chị đã lên giọng xưng hô Tôi - Ông thể hiện sự ngang hàng của mình với chúng. Chị Dậu muốn đòi quyền làm người của mình “Chồng tôi đau ốm các người không có quyền” Nhân vật chị Dậu trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” đã thay đổi thái độ của mình, thể hiện sự vùng lên của người nông dân. Khi mà “con giun xéo mãi cũng quằn” chị càng van xin chúng càng lấn tới thì còn có cách chị phải vùng lên mà thôi. Vùng lên đòi quyền làm người, quyền sống cho mình và người thân trong gia đình.
Trước thái độ công kích đó của chị Dậu, bọn binh lính càng tức tiết chúng lao tới định trói tay anh Dậu mang đi. Chị Dậu xắn tay áo nói “Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem” một thái độ đanh thép, xưng hô đã thay đổi rất nhiều giờ đây chị Dậu cho mình cái quyền được ở trên bọn binh lính, chị xưng bà với bọn chúng, thể hiện sự cương quyết trong việc bảo vệ chồng của mình. Cùng với lời nói chị Dậu đã sấn tới lôi cổ một tên lính đẩy ra ngoài cửa khiến cho tên lính ngã chỏng gọng chúng lồm cồm bò dậy rồi đi mất. Sự phản ứng mạnh mẽ của chị Dậu khiến cho bọn chúng sợ mà không dám bắt anh Dậu đi nhưng đây chỉ là sự phản ứng nhất thời mang tính bộc phát không phải là sự phản kháng có đường lối chủ đích. Nhưng nó cho thấy sự phản kháng của người nông dân khi bị xô đẩy tới đường cùng.
Như vậy, có thể nói, nhân vật chị Dậu trong “Tức nước vỡ bờ” tuy là người phụ nữ yếu đuối nhưng có tình yêu thương chồng con vô cùng mãnh liệt chính vì tình yêu đó mà chị không ngại vùng lên bảo vệ người thân của mình. Cho thấy rằng người dân dù nghèo khổ, nhút nhát nhưng khi tới đường cùng họ cũng có những sức mạnh vô cùng to lớn có thể phát huy. Chị Dậu trong trích đoạn “Tức nước vỡ bờ” là người phụ nữ tiêu biểu cho những người phụ nữ, người nông dân lao động nghèo khổ trong thời kỳ trước khi cách mạng tháng Tám diễn ra. Khi đọc tác phẩm ta hiểu hơn về hoàn cảnh sống và những khốn khổ mà người nông dân như chị Dậu phải đối mặt trong thời kỳ phong kiến thực dân cũ.
Suy nghĩ về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ – mẫu 3
Ngô Tất Tố là nhà văn xuất sắc trong dòng văn học hiện thực 1930-1945. Viết về nạn sưu thuế dã man đã bần cùng hóa nhân dân ta, ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân, tiểu thuyết “Tắt đèn" của Ngô Tất Tố là một thành công đặc sắc. Nhân vật chị Dậu đã được khắc họa thành một nhân vật điển hình về người phụ nữ nông dân trong xã hội cũ.
Bình luận về tác phẩm “Tắt đèn”, nhà văn Nguyễn Tuân có nhận xét về nhân vật chị Dậu như sau: “Trên cái tối giời, tối đất của đồng lúa ngày xưa, hiện lên một cái chân dung lạc quan của chị Dậu”.
Nhận xét của Nguyễn Tuân rất sắc sảo. Ông chỉ ra giá trị hiện thực của “Tắt đèn” một tác phẩm đã phản ánh sự đen tối lầm than của nông thôn Việt Nam dưới thời Pháp thuộc, đồng thời khẳng định thành công của Ngô Tất Tố khắc hoạ nhân vật chị Dậu “một chân dung lạc quan ”hiện lên giữa “cái tối giời tối đất của đồng lúa ngày xưa " ấy. Chị Dậu có bao phẩm chất tốt đẹp: nghèo khổ mà phẩm giá trong sạch, thương chồng thương con, đảm đang tháo vát, dũng cảm chống lại bọn cường hào.. “Bản chất của nhân vật chị Dậu rất khóe, cứ thấy lăn xả vào bóng tối mà phá ra..”.
“Cái tối giời tối đất của đồng lúa ngày xưa được nói đến trong “Tắt đèn” là làng Đông Xá giữa mùa sưu thuế. Tiếng trống ngũ liên, tiếng tù và, tiếng mõ đốc sưu nổi lên suốt đêm ngày nghe rất rùng rợn, cổng làng bị bọn cường hào đóng chặt để tróc sưu. Bọn cai lệ, bọn tay chân lí trưởng với roi song, tay thước, dây thừng, nghênh ngang đi lại ngoài đường thét bắt trói kẻ thiếu sưu. Lí trưởng làng Đông Xá ra lệnh cho lũ tay chân: "Tha hồ đánh! Tha hồ trói! Thằng nào bướng bỉnh đánh chết vô tội vạ! Anh Dậu vì tội thiếu sưu mà bị bọn cường hào “bắt trói như trói chó để giết thịt!”“. Em trai anh Dậu chết từ năm ngoái nhưng anh Dậu vẫn phải nộp thay vì “Chết cũng không trốn được sưu Nhà nước!”. Có biết bao gia đình nông dân nghèo khổ bị điêu đứng, bị bắt đánh trói dã man! Chị Dậu phải bán khoai, bán ổ chó, bán đứa con gái đầu lòng lên 7 tuổi cho Nghị Quế. Chị phải đi ở vú... để kiếm đủ số tiền trang trải hai suất sưu cho chồng và đứa em chồng đã chết! Có thể nói “Tắt đèn” là bức tranh chân thực về xã hội nông thôn đen tối trước cách mạng, đồng thời là bản án đanh thép đối với cái xã hội ấy. Đọc “Tắt đèn”, ta rùng mình cảm thấy“cái tối giời tối đất của đồng lúa ngày xưa ” như Tố Hữu đã viết:
“Nửa đêm thuế thúc trống dồn,
Sân đình máu chảy, đường thôn lính đầy... ”
(30 năm đời ta có Đảng)
Giữa cái xã hội đen tối, hãi hùng ấy đã “Hiện lên một cái chân dung lạc quan của chị Dậu”. Ngô Tất Tố không chỉ thấu hiểu đời sxống nông thôn mà còn có tình cảm gắn bó với những người dân cày lam lũ, nghèo khổ. Ông đã dành cho nhân vật chị Dậu sự đồng cảm, xót thương và quý trọng. Ông đã viết nên những lời tốt đẹp nhất về cái chân dung lạc quan của chị Dậu. Chị Dậu cần cù chịu khó làm ăn "đầu tắt mặt tối” thế mà "cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc”. Tai họa dồn dập: hai cái tang mẹ chồng và em chồng, rồi anh Dậu bị ốm nặng kéo dài mấy tháng trời, gia đình chị trở thành “cùng đinh”. Thiếu sưu, chồng bị bắt, bị đánh trói dã man. Một nách ba đứa con thơ, trong nhà không còn một hột gạo, chị Dậu tất tả ngược xuôi tìm mọi cách để cứu chồng. Chị đã phải bán gánh khoai, bán ổ chó, đứt ruột bán cái Tí lên 7 tuổi cho mụ Nghị, mới trả đủ một suất sưu cho chồng! Chị còn phải đi ở vú để trang trải “món nợ Nhà nước” cho đứa em chồng đã chết. Trước mọi tai họa, chị đã vững vàng chống đỡ.
Trong cảnh “Tức nước vỡ bờ”, “cái chân dung lạc quan của chị Dậu” đã tỏa sáng. Chị nấu cháo, lấy quạt quạt cho cháo chóng nguội, ân cần mời chồng, an ủi chồng đang ốm “rề rề” ăn cháo. Trước sự chửi mắng và thái độ hách dịch côn đồ của tên cai lệ, chị đã nhún mình van xin “tha cho chồng”... Nhưng khi bị tên cai lệ “ bịch vào ngực”, “tát đánh bốp vào mặt”, anh Dậu sắp bị trói, chị Dậu đã “nghiến hai hàm răng” thách thức: "Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Với quyết tâm bảo vệ chồng, với sức mạnh và lòng dũng cảm, chị Dậu đã đánh ngã nhào hai tên côn đồ độc ác, những kẻ "hút nhiều xái cũ”. Chị căm giận phủ định mọi thế lực tàn ác của chính quyền thực dân. Chị nói với chồng sau khi đã trừng trị lũ đầu trâu mặt ngựa: “Thà ngồi tù. Để cho chúng làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được... ”. Cái chân dung chị Dậu "lạc quan” lắm chứ! Đẹp lắm chứ!
Đói cho sạch, rách cho thơm. Đọc “Tắt đèn ”, ta khâm phục trước phẩm cách trong sạch của chị Dậu. Chị Dậu đã “vứt toẹt nắm bạc” vào mặt tên Tri phủ Tư Ân khi hắn giở trò chó má! Chị cũng đã đẩy cụ cố Thượng ra, khi lão già ôm lấy chị... Bạo lực, tù đày, chị không sợ. Tiền bạc không mua chuộc được người đàn bà nhà quê này! Trong đêm tối như mực, ta thấy “hiện lên một cái chân dung lạc quan của chị Dậu ”.
Có người cho rằng chị Dậu manh động! Lại có ý kiến cho rằng cái kết của Tắt đèn nhuốm màu bi quan? Nhà văn Nguyễn Tuân đã phát hiện ra "Bản chất của chị Dậu rất khoẻ, cứ thấy lăn xả vào bóng tối mà phá ra ". Đó là một ý rất hay, rất đặc sắc.
Ngày nay, nông thôn Việt Nam đã có nhiều đổi mới. Xóm làng đã "ngói hoá”. Ánh điện đã tỏa sáng nhiều xóm thôn. Những cái Tí đã được cắp sách đến trường. Đọc “Tắt đèn” là một dịp để mọi người “ôn cũ biết mới”. Ta càng thấy cái tâm và cái tài của Ngô Tất Tố khi ông miêu tả bức chân dung lạc quan của chị Dậu.
Suy nghĩ về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ – mẫu 4
Trong nền văn học hiện thực phê phán thời kì 1930-1945 không thể không nhắc tới những cái tên các tác gia nổi bật như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Ngô Tất Tố,… Và có lẽ chúng ta không thể nào quên được hình ảnh chị Dậu - điển hình của người phụ nữ thời kì đó. Đó là hình ảnh một người phụ nữ luôn hết lòng vì chồng con, mang nặng đức hi sinh nhưng không còn sự yếu đuối nhu nhược của người phụ nữ thời kì phong kiến mà đã có sự phản kháng mạnh mẽ chống lại những thế lực luôn chèn ép, bắt buộc những người nông dân thời kì bấy giờ, do đó có lẽ đoạn văn “Tức nước vỡ bờ” là một trong những đoạn văn đắt giá nhất trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố mang nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc để lại trong lòng người đọc cho tới tận hôm nay.
Bối cảnh trong tác phẩm là hình ảnh của làng Đông Xá trong những ngày đang bị bọn lí chủ, cường hào đi thúc giục sưu thuế cho bọn chúng. Mà nhà chị Dậu lại là một trong những gia đình khó khăn nhất trong làng. Vì không thể trả nổi mức thuế cao vô lí mà anh Dậu đã bị bọn chúng bắt trói lại, đánh đập dã man. Cực chẳng đã, chị Dậu đã phải bán đi đàn chó mẹ, chó con cùng đứa con gái lớn nhất cho nhà Nghị Quế với mứa giá rẻ mạt để có tiền cứu chồng ra khỏi tay của bọn cường hào. Qua đây, chúng ta có thể thấy được hình ảnh của một người phụ nữ nông dân tuy thất học nhưng luôn hết lòng vì chồng, phải cáng đáng công việc mà đáng lẽ ra dành cho người đàn ông trong gia đình.
Mở đầu đoạn trích là hình ảnh anh Dậu bị trói trên cây cột giữa sân đình, đang thoi thóp, kiệt quệ, không thể chống đỡ được sự đau đớn, mỏi mệt cả về thể xác và tinh thần. Khó khăn lắm, chị Dậu mới có được chút tiền bạc để nộp sưu. Ấy vậy mà bọn cường hào, tay sai của “ông Lý” lại lôi anh Dậu ra vứt ở ngoài sân, trao trả lại cho chị và đòi chị phải nộp thêm thuế đinh của người em trai chồng đã mất từ năm ngoái. Đó là một điều đòi hỏi vô lí, thế nhưng chị vẫn phải nhẫn nhục. Đau khổ là thế, lo lắng là thế nhưng chị vẫn cố dặn lòng, cố gắng đưa cho chồng bát cháo loãng, dù chính mình còn chưa có gì ăn, Chị chỉ nhẹ nhàng bảo với chồng : “Thầy em cố gắng dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột” . Lời của người đàn bà nhà quê tuy mộc mạc nhưng lại mang biết bao tâm tư, tình cảm mà ít ai sánh được. Thậm chí, chị còn bế cái Tửu ngồi cạnh chồng để nhìn xem anh ăn có được hay không, có ngon miệng không . Tình cảm của chị phải son sắt, giàu đức hi sinh như thế nào mới có thể được như vậy trong lúc hoàn cảnh khó khăn, đầy ngang trái như vậy. và có lẽ chính tình yêu thương bao la ấy đã tạo cho chị sức mạnh phi thường chống lại bọn tay sai khi chúng tiến vào, định cưỡng ép tới bước đường cùng hoàn cảnh của anh chị.
Đám tay sai khi tiến vào cùng roi da, gậy gộc, điều làm đầu tiên của chị là nghĩ tới người chồng đáng thương của mình. Chị lo lắng anh không thể chịu nổi bất cứ trận đánh nào nữa. anh đã hoàn toàn kiệt sức sau đêm qua. Chị chỉ có thể cầu xin bằng giọng nói run run, đầy hèn mọn, nài nỉ:” hai ông làm phúc nói với ông Lý xin cho cháu khất”. chị cư xử như vậy là bởi vì chị biết hoàn cảnh của mình bấy giờ, vì chị chỉ là một người phụ nữ nông dân như bao con người khác mà thôi. Lúc này chị không còn nghĩ được gì ngoài ý chí sôi sục phải bảo vệ gia đình của mình, bảo vệ người chồng đau ốm cũng những đứa con thơ dại. thế nhưng, những tên tay sai ấy đâu còn chút tình người nào. Chúng bỏ ngoài tai lời van xin của chị, chúng gạt chị ra, định tiếp tục trói anh Dậu dẫn đi, lúc này đây, chị đã phải quỳ xuống cầu xin :” cháu xin ông, nhà cháu mới tình được một lúc”. Nhưng hắn lại tát chị và một mực đòi xông về phía anh Dậu vừa mới tỉnh lại trong chốc lát. Tới đây, chị đã không thể nín nhịn được nữa. Sự phản kháng của chị đi theo mức độ tăng dần lên. Đầu tiên, chị ngăn bọn chúng lại và nói “ chồng tôi đau ốm, các ông không được phép hành hạ”. chỉ một câu nói thôi nhưng đã như một lời cảnh cáo của chị về hành động của bọn chúng. Thế nhưng càng nhẫn nhịn thì bọn chúng lại càng lấn tới. Hắn “ bịch luôn vào ngực chị mấy bịch” rồi “ tát vào mặt chị một cái đánh bốp” rồi vẫn xông về phía anh Dậu. đến lúc này, chị Dậu đã không còn giữ được bình tĩnh nữa, chị lao về phía chồng, gạt bọn tay sai ra, hai tay chống nạnh nói “ mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem”. Đúng như câu nói “Tức nước vỡ bờ”, chị Dậu từ cách xưng hô đầy nhỏ bé, hèn kem, xưng cháu gọi ông, sau đó chị xưng là “tôi”, và cuối cùng là “bà - mày”. Có thể có người cho rằng chị Dậu là một người phụ nữ đanh đá thế nhưng có thể nói rằng, ít ai có thể hành động được như chị. Chị lao vào những tên muốn bắt chồng chị rồi đánh nhau với chúng. Sức mạnh thật sự của người phụ nữ trỗi dậy khi họ bắt buộc phải bảo về những người thân yêu xung quanh mình,, và cũng có lẽ do chị đã không thể nín nhịn được thêm nữa, chị đã bị buộc vào bức đường cùng. Thậm chí dù chồng chị có khuyên, chị cũng vẫn đanh thép làm theo bản năng của chị, chị thà ngồi tù chứ quyết không để bị chèn ép, bị ép buộc. cũng như nhà Nguyễn Tuân đã từng nói: “Trên cái tối trời, tối đất của xã hội ngày xưa, hiện lên một chân dung lạc quan của chị Dậu. Bản chất của chị Dậu rất khỏe, cứ thấy lăn xả vào bóng tối mà phá ra…”
Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” đã miêu tả lại sâu sắc hình ảnh đầy màu sắc hiện thực của xã hội việt nam thời kì trước cách mạng. Cùng với nó, hình ảnh chị Dậu cũng được khắc họa một cách rõ nét, dung hòa hai tính cách khác nhau, đối với những người thân yêu bên cạnh, chị luôn dịu dàng, sẵn sàng hi sinh bất cứ điều gì, thế nhưng với những kẻ xấu, chị bất chấp tất cả để chiến đấu cùng chúng. Đó cũng có lẽ là một sự thay đổi lớn trong hình ảnh của người phụ nữ cả về khí chất và tính cách.
Suy nghĩ về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ – mẫu 5
Ngô Tất Tố được coi là nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Các tác phẩm của ông đều tập trung khai thác cuộc sống nghèo khổ của người nông dân trước cách mạng qua đó bộc lộ được tâm lí và vẻ đẹp của người nông dân. Một trong số những tác phẩm nổi tiếng của ông chính là tiểu thuyết “ Tắt đèn” đặc biệt là đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” đã làm sáng rõ hình ảnh chị Dậu- một người phụ nữ mạnh mẽ kiên cường.
Trước tiên chị Dậu hiện lên là một người phụ nữ có cuộc sống vô cùng khổ cực, bị đày đọa bởi sưu cao thuế nặng. Gia đình chị vì không nộp đủ thuế của người em chồng đã chết từ năm ngoái nên anh Dậu bị bắt đi và bị hành hạ đánh đập dã man. Người phụ nữ ấy đã phải bán hết mọi thứ trong gia đình, bán cả đàn chó mới sinh để lo tiền chạy cho anh Dậu. Nhưng như vậy vẫn chưa đủ và chị Dậu phải nuốt nước mắt để bán đứa con mà mình đứt ruột đẻ ra cho nhà phú ông. Hình ảnh chị Dậu là hiện thân cho những người phụ nữ trước cách mạng có cuộc sống khổ đau, bị xã hội đày đọa đến bước đường cùng. Chúng bắt người nông dân phải nộp thuế cao ngất ngưởng và đầy vô lí, nếu không nộp đủ sẽ bị lôi ra đình chịu trận. Đồng thời qua đây ta cũng thấy hình ảnh chị Dậu hiện lên là một người thương chồng thương con hết mực, người phụ nữ của gia đình với biết bao lo toan trong cuộc sống.
Đặc biệt, hình ảnh chị Dậu hiện lên trong đoạn trích là một người phụ nữ mạnh mẽ mang trong mình sức sống tiềm tàng sức phản kháng và tấm lòng dũng cảm chống lại cái ác. Đúng như nhan đề của đoạn trích “ Tức nước vỡ bờ”, khi con người bị đẩy đến bước đường cùng, không thể chịu đựng được nữa thì sẽ vùng lên đấu tranh quyết liệt. Nhà văn đã miêu tả rất tinh tế từng cử chỉ, lời nói, hành động của nhân vật chị Dậu khi phản kháng lại bọn cai lệ và lí trưởng. Khi thấy chồng chị bị chúng hành hạ, chị từ việc xưng hô “ ông- cháu” đã chuyển thành “ tôi” và cuối cùng là “ bà- mày” . Chỉ cách xưng hô đấy thôi cũng đã cho thấy chị đã có tinh thần phản kháng, không chịu nhu nhược để yên cho chúng bắt nạt. Rồi người phụ nữ mạnh mẽ ấy chỉ trong chốc lát đã đánh trả được hết bọn cai lệ khiến chúng sợ hãi và bỏ chạy…
Như vậy, hình ảnh chị Dậu hiện lên thật đẹp thật đáng ngưỡng mộ và trân trọng. Mặc dù có cuộc sống nghèo khổ nhưng ở người phụ nữ này vẫn luôn toát lên tình thương yêu gia đình, sự nhẫn nhịn chịu đựng và đặc biệt là tinh thần phản kháng mãnh liệt chống lại thế lực bạo tàn. Chính những người nông dân như chị Dậu này sẽ làm tiền đề để cho cuộc cách mạng tháng Tám mở ra và thành công vang dội.