X

Soạn văn 12 Cánh diều

Soạn bài Tri thức Ngữ văn trang 47 - ngắn nhất Cánh diều


Haylamdo soạn bài Tri thức Ngữ văn trang 47 ngắn nhất mà vẫn đủ ý được biên soạn bám sát sách Ngữ văn lớp 12 Cánh diều giúp học sinh soạn văn 12 dễ dàng hơn.

Soạn bài Tri thức Ngữ văn trang 47 - Cánh diều

1. Hài kịch

Hài kịch là một thể loại mang đầy đủ những đặc điểm của tác phẩm kịch về cốt truyện, ngôn ngữ, xung đột, hành động,... nhưng có những diểm khác biệt sau:

- Hài kịch sử dụng tiếng cười để chế giễu, phê phán, châm biếm, đả kích những thói hư tật xấu, cái nhố nhăng, lố bịch, kệch cỡm, lỗi thời,... trong đời sống.

- Tình huống trong hài kịch là tinh thế, hoàn cảnh đặc biệt được phát hiện trong cuộc sống đời thường khiến cho mẫu thuẫn, xung đột và thói hư tật xấu, tính cách đáng cười của nhân vật chuyển từ trạng thái tiềm ẩn sang trạng thái được bộc lộ. Ví dụ: hồi IV, lớp bảy của văn bản Tiền tội nghiệp của tôi ơi! (trích Lão hà tiện - Mô-li-e) xoay quanh tình huống Ác-pa-gông (Harpagon) phát hiện tráp vàng đã không cánh mà bay. Một số tinh huống thường gặp trong hài kịch là nhầm lẫn, hiểu lầm, “gậy ông đập lưng ông”, “giấu đầu hở đuôi”....

- Xung đột trong hài kịch thường là mâu thuẫn giữa cái xấu (cái thấp hèn) với cái tốt (cái đẹp, cái cao cả), cũng có khi là mâu thuẫn giữa cái xấu với cái xấu.

- Nhân vật trong hài kịch thường có sự không tương xứng giữa thực chất bên trong và hành động bên ngoài, giữa suy nghĩ và hành động, lời nói và việc làm, phẩm chấ, năng lực và vị trí xã hội,... hoặc có thói quen, tính cách, ứng xử,... trái với lẽ thường; vì vậy thường trở nên lố bịch, hài hước, đáng cười.

- Hành động trong hài kịch là toàn bộ hoạt động của nhân vật (lời thoại, cử chỉ, điệu bộ, hành vi,...) tập trung bộc lộ thói tật, tính cách đáng cười của nhân vật hài kịch.

Ví dụ: hành động nắm tay, giậm chân xuống sàn và đe doa trừng phạt Khlét-xta-cốp (Khlestacov) của thị trưởng khi biết mình bị lừa: “Hừ... Tất cả bọn văn sĩ văn siếc ấy, hừ, đó sâu tằm, đồ ưa tự do khốn kiếp, cái giống quỷ quái, ông thì trói tròn tất cả chúng nó lại, ông thì nghiễn nát tất cả chúng ra như cám, giẫm bẹp chúng nó, quẳng xác cho quỷ nó tha đi!” trong lớp VIII của vở kịch Quan thanh tra (Gô-gôn).

- Ngôn ngữ trong hài kịch bao gồm lời thoại (đối thoại, độc thoại, bàng thoại) và chỉ dẫn sân khấu. Để tạo ra tiếng cười, tác giả thường sử dụng ngôn ngữ gần với đời sống và các biện pháp như: chơi chữ, nói lái, nói quá, nói lắp, nhại, tương phản,... Đối thoại trong hài kịch thường được tổ chức theo cấu trúc: tấn công - phản đòn, thăm dò - lảng tránh, cầu xin - từ chối, vu vạ - biện minh,...

- Thủ pháp trào phúng (biện pháp gây cười) thường được sử dụng trong hài kịch gồm: tạo tình huống hài hước, trớ trêu, giàu kịch tính, phóng đại (cường điệu, nói quá), cách diễn đạt phi lô gích, không hợp tình thế, điệu bộ gây cười, giễu nhại, vật hóa, tương phản, bỏ lửng lời thoại, “ông nói gà, bà nói vịt”....

2. Phong cách cổ điển

Phong cách cổ điển là phong cách nổi bật trong các tác phẩm văn học nghệ thuật châu Âu thuộc trào lưu chủ nghĩa cổ điển (classicism), phát triển rực rỡ nhất ở nước Pháp từ cuối thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII. Trong văn học, phong cách cổ điển thường xây dựng nhân vật trung tâm lí tưởng là những con người đặt lí trí lên trên tình cảm, phục tùng lợi ích quốc gia, dòng họ; phê phán những con người đam mê dục vọng bản năng, đi ngược lại nguyên tắc tôn sùng lí trí. Ví dụ: các nhân vật Si-men (Chimène) và Rô-dri-gơ (Rodrigue) trong vở bi kịch Lơ Xít (Le Cid) của Coóc-nây (Corneille) là những tâm hồn cao thượng, đặt danh dự và quyền lợi chung trên tình yêu và hạnh phúc riêng. Trái lại, nhân vật Ác-pa-gông trong vở hài kịch Lão hà tiện (Mô-li-e) với thói hám vàng, bất chấp tình nghĩa hoặc các nhân vật mang những thối hư tật xấu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten (La Fontaine),... đều là đối tượng của tiếng cười châm biếm. Nhân vật trong các tác phẩm mang phong cách cổ điển được tô đậm, nhấn mạnh để làm nổi bật một nét tính cách nào đó. Ví dụ, nhân vật Ác-pa-gông là sự tô đậm “có tính chất hùng biện của tính hà tiện” (Bi-ê-lin-xky) - Bielinsky). Tính cách của các nhân vật thường tĩnh tại, sự thay đổi của hoàn cảnh thường để nhấn mạnh, làm rõ thêm tính cách.

Phong cách cổ điển đề cao tính quy phạm, khuôn mẫu, chuẩn mực trong nội dung và nghệ thuật: hướng về các để tài cao nhã, những hình mẫu lí tưởng về đạo đức, lẽ sống..... hướng tới sự hài hòa, cân xứng trong bố cục; ưa sử dụng ngôn ngữ tao nhã, ước lệ, tượng trưng,..., đòi hỏi tôn trọng những quy định nghiêm ngặt về thể loại. Phong cách cổ điển coi trọng chức năng xã hội, giáo huấn của văn học.

Ở Việt Nam và một số nước phương Đông, phong cách cổ điển nổi bật trong nhiều sáng tác thời trung đại.

3. Lỗi lô gích, câu mơ hồ và cách sửa

3.1. Lỗi lô gích là hiện tượng câu hoặc đoạn văn, văn bản có những thông tin, lập luận mâu thuẫn nhau hoặc thiếu nhất quán, không đầy đủ, không phù hợp với lí lẽ thông thường và thực tế. Ví dụ:

Trong giáo dục nói chung và trong bóng rổ nói riêng, chúng ta đã đạt được những thành công nhất định.

Câu này chứa các từ ngữ thể hiện cách tư duy thiếu nhất quán: giáo dụcbóng rổ không thuộc cùng lĩnh vực nên không thể sử dụng cách diễn đạt nói chung, nói riêng.

Để sửa lỗi lô gích, người viết cần xác định đúng nguyên nhân gây ra lỗi và thay thế bằng các từ ngữ phù hợp, đảm bảo tính thống nhất và phù hợp với tư duy cũng như thực tế khách quan. Ví dụ: Câu trên có hai cách sửa: (1) Trong thể thao nói chung và trong bóng rổ nói riêng, chúng ta đã đạt được những thành công nhất định, (2) Trong giáo dục nói chung và trong giáo dục thể chất nói riêng, chúng ta đã đạt được những thành công nhất định.

3.2. Câu mơ hồ là câu mắc lỗi dùng từ hoặc lỗi cấu tạo khiến người nghe (người đọc) có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, không đúng ý người nói (người viết). Ví dụ:

Xe không phải rẽ trái!

Câu này có ba cách hiểu: Xe này không bắt buộc phải rẽ trái, hay: Các loại xe nói chung không bắt buộc phải rẽ trái; Xe không tải (không chở người hoặc hàng hóa) phải rẽ trái.

Để sửa câu mơ hồ, người viết cần thêm những từ ngữ phù hợp để làm nổi bật thông báo duy nhất của câu, tránh hiểu lầm. Ví dụ: Câu trên có ba cách sửa: (1) Xe này không phải rẽ trái; (2) Tất cả các loại xe đều không phải rẽ trái!; (3) Xe không tải phải rẽ trái!.

Trong giao tiếp, cần tránh viết (nói) những câu có thể hiểu theo nhiều nghĩa, đặc biệt là trong các văn bản hành chính và khoa học. Tuy nhiên, cũng cần phân biệt câu mắc lỗi mơ hồ với câu được cố ý viết với nhiều cách hiểu khác nhau nhằm mục đích tu từ. Ví dụ:

giọt nước mắt vầng trăng

long lanh trong đáy giếng

(Đàn ghi ta của Lor-ca - Thanh Thảo)

Dòng thơ giọt nước mắt vầng trăng có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau: giọt nước mắt như vầng trăng; giọt nước mắt của vầng trăng,.... Sự mơ hồ ở đây nhằm tạo ra các hướng liên tưởng đa dạng và phong phú, góp phần biểu đạt sâu sắc hình tượng của tác phẩm.

Xem thêm các bài Soạn văn lớp 12 Cánh diều ngắn nhất, hay khác: