Soạn bài Tự đánh giá cuối học kì 1 - ngắn nhất Cánh diều
Haylamdo soạn bài Tự đánh giá cuối học kì 1 ngắn nhất mà vẫn đủ ý được biên soạn bám sát sách Ngữ văn lớp 12 Cánh diều giúp học sinh soạn văn 12 dễ dàng hơn.
Soạn bài Tự đánh giá cuối học kì 1 - Cánh diều
I. Đọc hiểu
Đọc đoạn trích “Nhật kí Đặng Thùy Trâm” (SGK trang 162 – 163) và thực hiện các yêu cầu bên dưới.
Câu 1 (trang 163 sgk Ngữ văn 12 Tập 1): Yếu tố nào thể hiện rõ nhất định tính chất nhật kí của đoạn trích.
Trả lời:
Yếu tố thể hiện rõ nhất định tính chất nhật kí của đoạn trích là:
- Ghi chép lại các sự việc đã trải qua từng ngày.
- Ngôi thứ nhất, xưng “mình”.
Câu 2 (trang 163 sgk Ngữ văn 12 Tập 1): Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn: “Tất cả, tất cả đè nặng trong trái tim mình và tâm tư mình đầy ắp như mặt sông những ngày nước lũ.”
Trả lời:
- Biện pháp nghệ thuật: so sánh: “tâm tư mình” đầy ắp như “mặt sông những ngày nước lũ”
- Tác dụng:
+ Nổi bật sự nặng nề, đầy ắp và tràn ngập cảm xúc trong bản thân nhân vật đã đè nặng tâm tình của cô gái Đặng Thùy Trâm.
+ Câu văn trở nên vô cùng sinh động, tạo nên cảm xúc mạnh mẽ giúp người đọc hiểu rõ hơn về tâm trạng của nhân vật Thùy Trâm trong đoạn trích trên .
Câu 3 (trang 163 sgk Ngữ văn 12 Tập 1): Câu “Quả thực mình đã không nghĩ gì đến hạnh phúc của tuổi trẻ, không hề mong ước được sống trong một tình yêu sôi nổi, mà lúc này chỉ có tình gia đình, chỉ có ước mong sum họp với gia đình.” nói lên tư tưởng và thái độ gì của người viết? (Trả lời ngắn từ 3 – 5 dòng).
Trả lời:
Tình cảm chân thành với những ước mơ vô cùng giản dị của cô gái Thùy Trâm. Trong không gian chiến trường ác liệt, chị chỉ có một ước mơ vô cùng nhỏ bé- được trở về bên gia đình, sum họp với người thân. Chị không màng đến tình yêu sôi nổi mà lẽ ra đó là một hạnh phúc của tuổi trẻ mà ai cũng phải có. Đối với chị, hạnh phúc bây giờ là chính là được quay về Hà Nội, sum họp bên người thân.
Câu 4 (trang 163 sgk Ngữ văn 12 Tập 1): Em nghĩ người viết đoạn văn nhật kí trên là một người như thế nào?
Trả lời:
Đó là hình ảnh của con người có lý tưởng cao đẹp, sẵn sàng cống hiến cho đất nước, tổ quốc, với những cảm xúc đời thường, ước mơ bình dị luôn mong muốn được về bên gia đình, người thân.
Câu 5 (trang 163 sgk Ngữ văn 12 Tập 1): Có thể rút ra triết lí nhân sinh gì từ đoạn trích nhật kí trên?
Trả lời:
Tình yêu nước nồng nàn, ý chí kiên cường mà còn học được bài học quý giá về cách sống cống hiến, sống hết mình, không ngại gian khó. Trải qua những ngày tháng bom đạn ác liệt, thiếu thốn về vật chất, nhưng cô gái ấy vẫn luôn giữ vững tinh thần lạc quan, yêu đời.
II. Viết
Câu 1 (trang 163 sgk Ngữ văn 12 Tập 1): Từ đoạn trích “Nhật kí Đặng Thùy Trâm” ở bên, hãy nêu lên suy nghĩ của em về một lối sống đẹp trong bối cảnh xã hội hiện nay.
Trả lời:
Nhật ký Đặng Thùy Trâm không chỉ là một trang sử hào hùng về cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước mà còn là một bức tranh sinh động về thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kỳ đó. Qua những trang viết chân thực, mộc mạc, ta không chỉ cảm nhận được tình yêu nước nồng nàn, ý chí kiên cường mà còn học được lối sống đẹp của Đặng Thùy Trâm - là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ noi theo, đặc biệt là trong bối cảnh xã hội hiện nay.
Lối sống đẹp là lối sống hướng đến những giá trị đạo đức cao quý, phù hợp với chuẩn mực chung của xã hội. Đó là lối sống có ích cho bản thân, gia đình và cộng đồng. Trong bối cảnh xã hội hiện nay, khi mà con người đang ngày càng chú trọng đến vật chất, hưởng thụ, thì lối sống đẹp càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Một lối sống đẹp sẽ góp phần xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ, nơi mà mỗi người đều sống trong tình yêu thương, sự tôn trọng và niềm tin lẫn nhau.
Mỗi cá nhân cần ý thức được trách nhiệm của bản thân đối với gia đình, cộng đồng và xã hội. Chúng ta cần nỗ lực học tập, rèn luyện để trở thành những người có ích cho xã hội. Lời nói và hành động của chúng ta cần luôn đi đôi với nhau. Chúng ta cần sống thật với bản thân và với mọi người xung quanh.
Chúng ta cần biết yêu thương, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn. Lòng nhân ái sẽ giúp con người sống gần gũi nhau hơn, tạo nên một xã hội văn minh, nhân đạo. Trước những khó khăn, thử thách, chúng ta cần có ý chí vươn lên, không lùi bước. Ý chí kiên cường sẽ giúp con người vượt qua mọi chướng ngại vật và đạt được thành công trong cuộc sống. Chúng ta cần biết trân trọng những gì mình đang có, không phung phí, lãng phí. Sống tiết kiệm là một biểu hiện của lối sống văn minh, ý thức.
Lối sống đẹp là một hành trình dài, đòi hỏi sự nỗ lực, rèn luyện không ngừng của mỗi cá nhân. Chúng ta hãy học hỏi từ những tấm gương sáng như Đặng Thùy Trâm để xây dựng cho mình một lối sống đẹp, góp phần xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ.
Mỗi người Việt Nam cần ý thức được trách nhiệm của bản thân trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước. Mỗi cá nhân cần ý thức được trách nhiệm của bản thân đối với gia đình, cộng đồng và xã hội. Chúng ta cần nỗ lực học tập, rèn luyện để trở thành những người có ích cho xã hội. Chúng ta cần biết yêu thương, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn. Lòng nhân ái sẽ giúp con người sống gần gũi nhau hơn, tạo nên một xã hội văn minh, nhân đạo. Chúng ta cần biết trân trọng những gì mình đang có, không phung phí, lãng phí. Sống tiết kiệm là một biểu hiện của lối sống văn minh, ý thức.
Lối sống đẹp của Đặng Thùy Trâm là một bài học quý giá cho thế hệ trẻ noi theo. Mỗi chúng ta hãy học tập và rèn luyện để trở thành những người có ích cho xã hội, góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh.
“Sống trên đời cần có một tấm lòng”. Những tấm lòng thảo thơm gieo tình yêu khắp muôn nơi, mang lại ánh sáng cho miền đất tăm tối, mang lại hạnh phúc cho những người cùng khổ. Mỗi chúng ta, hãy gửi theo gió tấm lòng mình để cứu giúp bao người và để chính chúng ta là những con người có lối sống đẹp. Sống đẹp mãi là động lực để mỗi người phấn đấu nếu như mỗi người biết cống hiến, biết hy sinh và có bản lĩnh sống.
Câu 2 (trang 163 sgk Ngữ văn 12 Tập 1):
Viết bài văn nêu lên điểm giống nhau và khác nhau giữa bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” (Nguyễn Đình Chiểu) và bài thơ “Tây Tiến” (Quang Dũng).
Trả lời:
Có những tác phẩm đọc xong, gấp sách lại là ta quên ngay, cho đến lúc xem lại ta mới chợt nhớ là mình đã đọc rồi. Nhưng cũng có những cuốn sách như dòng sông chảy qua tâm hồn ta để lại những ấn tượng chạm khắc trong tâm khảm. “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu và “Tây Tiến” của Quang Dũng là hai tác phẩm như thế! Song, hai tác phẩm đều có điểm giống và khác nhau về mặt nội dung và nghệ thuật.
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” được Nguyễn Đình Chiểu viết để tưởng nhớ công ơn của những người nông dân đã anh dũng đứng lên chống giặc. Bài văn tế như bức tượng đài bằng ngôn từ, khắc họa hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân hào hùng mà bi tráng, tượng trưng cho tinh thần yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm của cha ông ta. Tác phẩm “Tây Tiến” được viết cuối năm 1948, ở Phù Lưu Chanh (Hà Tây), khi Quang Dũng đã chuyển sang đơn vị khác và nhớ về đơn vị cũ. Binh đoàn Tây Tiến: được thành lập vào năm 1947 với thành phần là phần đông là thanh niên Hà Nội, học sinh, sinh viên. Nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt- Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân Pháp. Địa bàn hoạt động khá rộng lớn: Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa ( Việt Nam), Sầm Nưa (Lào)
Nội dung của bài “Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc” (Nguyễn Đình Chiểu) có sự giống nhau với tác phẩm “Tây Tiến” (Quang Dũng) ở những điểm sau: Trước hết, chủ đề của hai văn bản đều thể hiện tình yêu quê hương, đất nước vô cùng sâu sắc trong thời kì giữ vững, bảo vệ nền độc lập của dân tộc trước giặc ngoại xâm. Tiếp đó, hai tác phẩm đều vô cùng thành công khi xây dựng, khắc họa vẻ đẹp gan dạ, dũng cảm, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh vì độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam trong kì kháng chiến. Hình tượng những người chiến sĩ, nghĩa sĩ trong Tây Tiến và Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc phải trải qua những khó khăn trong cuộc chiến đấu: Các nghĩa sĩ Cần Giuộc phải vào trận với các thứ vũ khí thô sơ, thiếu thốn, chỉ là những vật dụng sinh hoạt và lao động hàng ngày:
Ngoài cật có một manh áo vải
Hay:
Trong tay cầm một ngọn tầm vông.
Và người lính Tây Tiến cũng phải chiến đấu trong điều kiện núi rừng hoang sơ, khắc nghiệt, những cơn sốt rét hoành hành. Vì thế, mỗi tác phẩm đều là nguồn cảm hứng cho chủ nghĩa dân tộc và có ý nghĩa như lời kêu gọi hành động đối với nhân dân Việt Nam hãy đoàn kết, đấu tranh vì độc lập, chủ quyền của mình.
Ngoài những điểm chung trên thì ở mỗi tác phẩm có sự khác biệt nhật đại diện cho thời kì lịch sử khác nhau cũng như cho tài năng và phong cách sáng tác của mỗi tác giả. Trước hết, cách khai thác vẻ đẹp của người dân Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Pháp của hai tác phẩm khác nhau. Trong bài văn tế, hình tượng nghĩa quân Cần Giuộc được hiện lên không phải là người lính đã quen với việc binh đao, họ đều là những người dân nghèo lương thiện, cui cút làm ăn, ấy thế nhưng một khi tổ quốc cần, thì trái tim họ một lòng hướng về dân tộc.
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó,
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ....
Ở đây, Nguyễn Đình Chiểu tập trung khắc họa hình tượng người nông dân nghĩa sĩ qua tinh thần gan dạ, dũng cảm, hào hùng, sẵn sàng đứng lên chiến đấu vì độc lập dân tộc. Dẫu trong cuộc chiến, lực lượng của ta và địch có sự chênh lệch lớn, không cân sức nhưng những người nông dân áo vải vẫn xông lên, quyết chiến với thứ vũ khí thô sơ, đơn giản. Vì thế, hình tượng nghĩa sĩ nông dân trở nên thật bi tráng, tựa như một tượng đài sững sừng vào không gian với thời gian để trở thành một tấm gương tiêu biểu cho các thế hệ mai sau. Người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc tiêu biểu cho hình ảnh người anh hùng chống Pháp thời kì đầu.
Mặt khác, những người lính Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng được khắc họa khi phần lớn xuất thân từ những người thanh niên tri thức ở Hà Nội. Ngoài sự gan góc, dũng cảm, kiên cường vượt qua bao gian khổ trong chiến tranh, binh đoàn Tây Tiến đuọc miêu tả với vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn Người lính Tây Tiến hào hoa, có lòng yêu nước nồng nàn, khát khao lập chiến công. Ngày dõi tầm mắt vượt biên giới mơ lập chiến công, tiêu diệt quân thù. Đêm mơ về Hà Nội có người thân, người yêu.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Trong hoàn cảnh chiến đấu ác liệt gian nan nhưng sự lãng mạn trong những người lính trẻ không hề mất đi. Họ không cứng nhắc, khô khan, cũng có những phút giây họ dành cho người thân gia đình. Họ nhớ về quê hương nơi mà người thân họ vẫn ngày đêm trông mong. Họ nhớ về những bóng dáng thân yêu. Dưới ngòi bút tài hoa của Quang Dũng, những người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp của những chiến sĩ cách mạng thời đại.
Về mặt nghệ thuật, trong bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng từ ngữ giản dị, gần gũi và lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân Nam Bộ. Đặc biệt, phép đối được sử dụng rộng rãi, đạt hiệu quả nghệ thuật cao. Những phép đối nói trên đã khắc họa vẻ đẹp bi tráng của người nông dân nghĩa sĩ. Giọng văn thay đổi linh hoạt, phù hợp với nội dung biểu đạt, trạng thái cảm xúc, trên nền âm hưởng chủ đạo là thống thiết. Khi gợi lại cuộc sống lam lũ, nghèo khó của người nông dân: Giọng văn bùi ngùi, trầm lắng còn lúc tái hiện trận công đồn thì nhịp điệu văn nhanh, mạnh, dồn dập, khắc họa những hành động khẩn trương, quyết liệt, gợi tả khí thế sôi động, tâm trạng hào hứng, hả hê: kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ. Khi ca ngợi những người nghĩa sĩ xả thân vì nước: Lời văn trở nên trang trọng, tự hào.
Trong bài “Tây Tiến”, bằng tài năng sử dụng, kết hợp các từ mới lạ độc đáo, Quang Dũng đã khiến cho bài thơ đậm chất nhạc, chất họa. Chẳng hạn như trong câu thơ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Ngoài ra,tác giả sử dụng nhiều từ ngữ tạo hình, kết hợp với nghệ thuật tương phản và những nét vẽ gân guốc: khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, súng ngửi trời, ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống…đã vẽ được một bức tranh núi rừng Tây Bắc hiểm trở, dữ dội. Xen vào những nét vẽ gân guốc giàu tính tạo hình là những nét vẽ mềm mại, gam màu lạnh của màu khói cơm, màu sương mờ ảo làm xoa dịu cả khổ thơ. Giữa khung cảnh thiên nhiên là hình ảnh con người tuy nhỏ nhưng hiện lên với tư thế hiên ngang, làm chủ thiên nhiên
Có thể nói rằng, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu và bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng đều là những tác phẩm văn học nổi tiếng của văn học Việt Nam, thể hiện tinh thần yêu nước, khí phách và lòng dũng cảm của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến chống giặc ngoại xâm để lại ấn tượng sâu sắc cho độc giả về lòng yêu nước sâu sắc cũng như vẻ đẹp của con người Việt Nam trong thời kì giữ vững, bảo vệ nền độc lập dân tộc.