Soạn bài Kiến thức ngữ văn trang 35 Tập 1 - ngắn nhất Cánh diều
Haylamdo biên soạn và sưu tầm soạn bài Kiến thức ngữ văn trang 35 Tập 1 ngắn nhất mà vẫn đủ ý được biên soạn bám sát sách Ngữ văn lớp 11 Cánh diều giúp học sinh soạn văn 11 dễ dàng hơn.
Soạn bài Kiến thức ngữ văn trang 35 Tập 1 - ngắn nhất Cánh diều
1. Bối cảnh lịch sử, môi trường gia đình, cuộc đời tác giả với việc đọc hiểu thơ văn
Bối cảnh lịch sử, môi trường gia đình là những yếu tố khách quan có ảnh hưởng tới cuộc đời, con người và sáng tác của tác giả. Cuộc đời, con người nhà văn là yếu tố chủ quan tác động trực tiếp tới sáng tác văn chương. Ngược lại, tác phẩm là “tấm gương phản chiếu” tác giả và thời đại. Vì vậy, cần vận dụng những kiến thức về bối cảnh lịch sử, gia đình, cuộc đời, con người nhà văn để đọc hiểu tác phẩm.
2. Nghệ thuật Truyện Kiều
- Thể loại: Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác phẩm tiêu biểu cho thể loại truyện thơ Nôm, kết hợp được thế mạnh của cả tự sự và trữ tình.
- Cốt truyện: Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du tiếp thu cốt truyện từ tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân (Trung Quốc). Cốt truyện của Truyện Kiều có phần giống cốt truyện của nhiều truyện thơ Nôm với kết cấu ba phần Gặp gỡ - Thử thách – Đoàn tụ, với kiểu kết thúc có hậu – người tốt được đền bù, kẻ xấu bị trừng phạt. Tuy nhiên, điểm khác biệt của Truyện Kiều so với truyện thơ Nôm nằm ở kết thúc tác phẩm: về hình thức là có hậu song thực chất là bi kịch.
- Nhân vật: Truyện Kiều có những sáng tạo lớn trong xây dựng nhân vật so với nhiều truyện thơ Nôm. Trong Truyện Kiều, có những nhân vật phân chia theo loại (nhân vật tốt, thiện như Kim Trọng, Từ Hải, nhân vật xấu, ác như Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh,…) nhưng cũng có những nhân vật không thể phân chia theo loại (nhân vật có sự đan xen tốt – xấu như Thúc Sinh, Hoạn Thư). Tính cách nhân vật được khắc họa với cả dáng vẻ bên ngoài và đời sống nội tâm, có sự phát triển bởi tác động của hoàn cảnh (Thúy Kiều).
Nội tâm nhân vật trong Truyện Kiều thường được thể hiện qua các mặt: lời người kể chuyện, bút pháp tả cảnh ngụ tình và đặc biệt là lời độc thoại nội tâm.
- Người kể chuyện: Trong Truyện Kiều, điểm nhìn trần thuật có sự thay đổi, từ người đứng ngoài câu chuyện thành người trong cuộc, kết hợp người kể chuyện hạn tri và người kể chuyện toàn tri, kết hợp kể với biểu đạt tình cảm.
- Nghệ thuật miêu tả: Trong Truyện Kiều, thiên nhiên có khi là đối tượng thẩm mỹ, được miêu tả chân thực, sinh động, có khi là phương tiện thể hiện tình cảm với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Nhân vật chính diện thường được Nguyễn Du miêu tả bằng bút pháp ước lệ, lí tưởng hóa, nhân vật phản diện thường được miêu tả bằng bút pháp tả thực.
- Ngôn ngữ: Ở Truyện Kiều, có cả ngôn ngữ đời sống, ngôn ngữ văn học dân gian (ca dao, tục ngữ), ngôn ngữ bác học kết tinh từ sách vở, vì vậy, vừa bình dị, vừa mang vẻ đẹp cổ điển. Điều đáng lưu ý là ngôn ngữ Truyện Kiều vẫn được sử dụng trong đời sống hiện đại, trong giao tiếp thông thường và giao tiếp thẩm mỹ – đúng, hay, tinh tế.
Tất cả những yếu tố này góp phần tạo nên giá trị lớn của thơ văn Nguyễn Du.
3. Biện pháp tu từ đối
- Đối là biện pháp tu từ, theo đó, người viết (người nói) xếp đặt những từ ngữ hoặc câu có đặc điểm ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp tương tự hoặc tương phản nhau ở những vị trí đối xứng trong câu hoặc trong văn bản để gợi ra một nội dung hoàn chỉnh, làm nổi bật một ý nghĩa nhất định.
- Biện pháp đối thường được thực hiện giữa hai dòng thơ hoặc hai câu văn, gọi là trường đối (bình đối).
- Biện pháp đối còn được thực hiện giữa các từ ngữ trong một dòng thơ hoặc một câu văn. Trường hợp này được gọi là tiểu đối.
- Biện pháp đối không chỉ được dùng phổ biến trong văn vần (như thơ, phú), văn biền ngẫu (như câu đối, chiếu, cáo, hịch,…) mà còn được dùng trong cả văn xuôi, nhất là văn chính luận.